Trường ĐH chỉ ra khó khăn trong thu hút, giữ chân nhà khoa học lĩnh vực công nghệ then chốt

16/09/2025 06:45
Mạnh Dũng

GDVN - Về nguồn nhân lực CLC, số lượng chuyên gia, giảng viên đào tạo bài bản về công nghệ bán dẫn, thiết kế và chế tạo vi mạch ở trong nước còn ít.

Một trong những nhiệm vụ, giải pháp cụ thể đặt ra tại Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là: Phát triển đội ngũ giảng viên, các nhà khoa học đủ năng lực, trình độ đáp ứng việc giảng dạy lĩnh vực khoa học cơ bản, công nghệ chip bán dẫn, vi mạch và các công nghệ then chốt; đẩy mạnh hợp tác với các đại học uy tín của nước ngoài; đổi mới mạnh mẽ phương thức đào tạo và ứng dụng công nghệ tiên tiến, nhất là trí tuệ nhân tạo.

Theo lãnh đạo một số cơ sở giáo dục đại học, thực hiện chủ trương này sẽ tạo ra cú hích đối với lĩnh vực nghiên cứu khoa học và công nghệ tại Việt Nam.

Còn khó khăn để thu hút và phát triển đội ngũ giảng viên ở các lĩnh vực khoa học, công nghệ then chốt

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đậu Bá Thìn - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Hồng Đức cho biết, nhà trường đã có những bước đi chiến lược và vững chắc trong việc phát triển các lĩnh vực công nghệ then chốt như công nghệ bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, chuỗi khối blockchain.

Cụ thể, trường đã chính thức mở ngành Khoa học vật liệu với chương trình đào tạo chuyên sâu về Kỹ thuật vi điện tử và Công nghệ bán dẫn, bắt đầu tuyển sinh từ năm học 2025-2026. Đây là sự chuẩn bị để đón đầu xu hướng phát triển mạnh mẽ của thị trường bán dẫn toàn cầu và đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao mà Thủ tướng Chính phủ đã nhấn mạnh là “đột phá của đột phá”.

Để triển khai chương trình đào tạo Khoa học vật liệu, đội ngũ giảng viên tham gia giảng dạy ngành này tại trường chủ yếu là phó giáo sư, tiến sĩ. Các giảng viên đã được đào tạo tại các trường đại học uy tín ở các nước công nghiệp phát triển như: Pháp, Đức, Hàn Quốc, Liên bang Nga và là những nhà nghiên cứu có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực khoa học vật liệu hay công nghệ bán dẫn.

Đồng thời, đội ngũ giảng viên phụ trách các học phần Trí tuệ nhân tạo và công nghệ chuỗi khối (Blockchain) gồm các phó giáo sư, tiến sĩ có trình độ cao, được đào tạo chuyên sâu cả nước ngoài lẫn các cơ sở đào tạo uy tín trong nước.

thay-dau-ba-thin.jpg
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đậu Bá Thìn - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Hồng Đức. Ảnh Website trường

Tuy nhiên, quá trình phát triển đội ngũ chất lượng cao ở các lĩnh vực khoa học và công nghệ mũi nhọn tại trường vẫn đang đối mặt với không ít thách thức.

Về nguồn nhân lực chất lượng cao, số lượng chuyên gia, giảng viên được đào tạo bài bản về công nghệ bán dẫn, thiết kế và chế tạo vi mạch ở trong nước hiện nay còn ít. Vì vậy, việc thu hút được nhân lực này về giảng dạy, nghiên cứu tại nhà trường là một thách thức lớn do trường là trường đại học địa phương.

Cùng với đó, cơ sở vật chất và phòng thí nghiệm còn hạn chế. Trong khi đó, các lĩnh vực công nghệ chip bán dẫn, vi mạch đòi hỏi hệ thống thiết bị, phòng thí nghiệm, phần mềm thiết kế rất hiện đại và chi phí cao. Hiện nay, cơ sở vật chất của nhà trường chủ yếu mới đáp ứng được đào tạo cơ bản, nghiên cứu ứng dụng nhỏ lẻ, chưa đủ điều kiện để triển khai sâu về thiết kế, chế tạo và thử nghiệm chip.

Mặt khác, kinh phí đào tạo, bồi dưỡng còn hạn hẹp. Việc cử giảng viên đi đào tạo chuyên sâu, nghiên cứu sinh hoặc thực tập tại các cơ sở, trung tâm nghiên cứu hàng đầu về bán dẫn trong và ngoài nước cần nguồn kinh phí lớn. Song, điều kiện ngân sách của trường dành cho lĩnh vực này còn hạn chế.

Cùng chia sẻ về vấn đề này, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Võ Thanh Tùng - Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế cho biết, liên quan đến các lĩnh vực khoa học cơ bản, công nghệ chip bán dẫn, vi mạch, nhà trường có đội ngũ giảng dạy và nghiên cứu gồm 24 giảng viên, trong đó có 3 giảng viên đạt chức danh phó giáo sư. Nhìn chung, đội ngũ giảng viên hiện tại hoàn toàn đáp ứng được chương trình đào tạo bậc đại học.

Tuy nhiên, việc phát triển đội ngũ giảng viên và nhà khoa học có đủ năng lực giảng dạy trong lĩnh vực này còn gặp khó khăn. Bởi mức thu nhập của đội ngũ giảng dạy chưa tương xứng so với việc làm việc tại các tập đoàn công nghệ. Bên cạnh đó, việc nâng cao năng lực chuyên môn cho đội ngũ giảng dạy hiện tại còn hạn chế, do cơ chế tuyển dụng còn phức tạp và cơ sở vật chất phục vụ nghiên cứu chuyên sâu chưa đầy đủ.

Do đó, để đáp ứng tốt công tác giảng dạy và nghiên cứu chuyên sâu phù hợp với sự phát triển của công nghệ trong thời gian tới, nhà trường cần bổ sung thêm nguồn nhân lực có chuyên môn, chất lượng cao.

Ngoài ra, cần bổ sung thêm cơ chế hỗ trợ giảng viên tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng và tham dự hội nghị, hội thảo chuyên ngành.

Cũng theo thầy Võ Thanh Tùng, mức thu nhập ở các lĩnh vực bán dẫn, vi mạch, công nghệ then chốt trên thế giới là rất cao, nhất là ở những quốc gia phát triển vốn có đời sống hiện đại, phúc lợi ưu việt lẫn những điều kiện học thuật tối ưu khác. Trên thực tế, các quốc gia, khu vực như Mỹ, châu Âu hay Nhật Bản, Trung Quốc đều tích cực săn đón và có ưu đãi cho những học giả tài năng trong những lĩnh vực này nhờ tiềm lực kinh tế mạnh. Các lĩnh vực lĩnh vực bán dẫn, vi mạch, công nghệ then chốt có tính đặc thù, đòi hòi cơ sở hạ tầng hiện đại, đồng bộ, máy móc được đầu tư mới liên tục với kinh phí cao. Nếu nhà khoa học giỏi mà không có điều kiện nghiên cứu, máy móc tốt, họ sẽ không thể nghiên cứu và phát triển cũng như phát huy tối đa năng lực trong các lĩnh vực này.

Tại Việt Nam, việc hợp tác của đại học trong nước với các đại học uy tín của nước ngoài trong đào tạo các lĩnh vực này còn tồn tại một số rào cản.

Trước hết, các trường đại học trong nước chưa đủ trình độ và điều kiện máy móc, phòng thí nghiệm đạt tiêu chuẩn quốc tế do đây là lĩnh vực rất mới mẻ, đặc thù, tốn kinh phí cao, đổi mới liên tục và không thể làm việc chỉ dựa vào kinh nghiệm hay quán tính.

Song song với đó, công nghệ cao đang biến đổi nhanh chóng nên độ cập nhật của cơ sở hạ tầng nghiên cứu cũng cần cơ chế linh hoạt và đổi mới liên tục.

Mặt khác, cơ chế đại học công lập ở nước ta còn nhiều ràng buộc trong hợp tác nghiên cứu. Điều này dẫn tới việc khó thành lập doanh nghiệp trong trường đại học. Đồng thời, mức chi cho chuyên gia nước ngoài chưa có quy định cụ thể hay kinh phí các trường dành cho nghiên cứu và phát triển các ngành công nghệ cốt lõi chưa sánh được với các đại học hàng đầu thế giới.

Đổi mới chương trình đào tạo chuẩn quốc tế để rút ngắn khoảng cách với các trường đại học nước ngoài

Theo thầy Võ Thanh Tùng, để thu hút và giữ chân đội ngũ giảng viên, nhà khoa học trong các lĩnh vực chip bán dẫn, vi mạch và các công nghệ then chốt, Việt Nam cần đầu tư mạnh vào cơ sở hạ tầng, máy móc và phòng thí nghiệm hiện đại, tiên tiến. Đồng thời, xây dựng môi trường hoạt động nghiên cứu khoa học phù hợp, để tạo động lực bước đầu cho các chuyên gia về giảng dạy và nghiên cứu.

Đối với các trường đại học, cần đổi mới chương trình đào tạo theo chuẩn quốc tế và hiện đại hóa phương thức đào tạo, sớm xây dựng các môn học về trí tuệ nhân tạo (AI) và công nghệ cao phổ cập cho sinh viên ngành này sớm từ năm nhất, đặc biệt trong bối cảnh công nghệ, trí tuệ nhân tạo đang được ứng dụng mạnh mẽ vào giảng dạy. Bổ sung cơ chế liên kết, hợp tác quốc tế để sinh viên các ngành này đến doanh nghiệp lớn thực tập, thực hành và tu nghiệp ở nước ngoài.

Ngoài ra, các trường đại học và viện nghiên cứu phải thúc đẩy hợp tác với các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp trí tuệ nhân tạo, bán dẫn và vi mạch bằng nhiều phương thức khác nhau.

Cụ thể, cần ưu tiên tuyển dụng nhân tài và đào tạo theo hướng thực hành đặc thù ở các công ty, doanh nghiệp. Sinh viên được kéo dài thời gian thực tập để làm quen với môi trường làm việc và tích lũy kinh nghiệm thực tiễn. Một số học phần trong chương trình học sẽ do doanh nghiệp trực tiếp đào tạo và đảm bảo đầu ra việc làm lẫn mức lương cho sinh viên ngay từ đầu khoá học. Điều này không chỉ đảm bảo đầu ra chất lượng cho thị trường lao động, mà còn mang lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp về nguồn nhân lực, từ đó khuyến khích họ tham gia hỗ trợ trường đại học và sinh viên tích cực hơn.

thumb-nq57.jpg
Ảnh minh họa (Nguồn: Website Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế).

Còn theo thầy Đậu Bá Thìn, để hợp tác giữa các trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp trong các ngành công nghiệp trí tuệ nhân tạo, bán dẫn và vi mạch đạt hiệu quả, cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp sau.

Một là, đồng thiết kế chương trình đào tạo. Doanh nghiệp tham gia ngay từ khâu xây dựng chuẩn đầu ra, đề cương môn học, học phần thực hành, để đảm bảo sinh viên ra trường có kiến thức và kỹ năng sát với yêu cầu thực tiễn.

Hai là, phát triển phòng thí nghiệm và trung tâm nghiên cứu chung. Trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp cùng đầu tư xây dựng phòng thí nghiệm bán dẫn, trung tâm AI ứng dụng, phòng cleanroom mini hoặc cloud lab để phục vụ cả nghiên cứu khoa học lẫn đào tạo nhân lực.

Ba là, xây dựng các chương trình thực tập, dự án thực tế. Sinh viên được tham gia các dự án nghiên cứu và phát triển sản phẩm ngay tại doanh nghiệp, giảng viên cũng có cơ hội đào tạo tại chỗ tại các nhà máy, từ đó tạo ra môi trường đào tạo kép tương tự các nước phát triển.

Bốn là, đặt hàng nghiên cứu và chuyển giao công nghệ. Doanh nghiệp đặt hàng đề tài cụ thể, ví dụ như: tối ưu hóa thuật toán AI, thiết kế chip chuyên dụng, giải pháp IoT để giảng viên, sinh viên được tham gia nghiên cứu. Từ đó, vừa giải quyết bài toán về tính thực tiễn, vừa tạo ra sản phẩm khoa học ứng dụng có giá trị.

Năm là, có chính sách đồng tài trợ và chia sẻ lợi ích. Doanh nghiệp có thể đồng tài trợ học bổng, hỗ trợ kinh phí nghiên cứu. Ngược lại, trường đại học và viện nghiên cứu cam kết chuyển giao tri thức, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao, đảm bảo cơ chế chia sẻ bản quyền và lợi nhuận minh bạch.

Sáu là, tăng cường quốc tế hóa hợp tác. Thúc đẩy mô hình hợp tác ba bên (trường đại học Việt Nam – doanh nghiệp quốc tế – viện nghiên cứu) để vừa tận dụng tối đa được nguồn lực về khoa học và công nghệ, vừa nâng cao chuẩn mực nghiên cứu và đào tạo.

Thầy Thìn cũng nhấn mạnh, nếu muốn rút ngắn khoảng cách với các trường đại học nước ngoài, đặc biệt trong bối cảnh công nghệ, trí tuệ nhân tạo đang được ứng dụng mạnh mẽ vào giảng dạy, các trường đại học cần xây dựng một lộ trình từ 5 đến 10 năm, nhằm hiện đại hóa chương trình đào tạo theo hướng quốc tế. Lộ trình nên được định hình theo ba giai đoạn cơ bản.

Giai đoạn thứ nhất là khởi động. Các trường đại học tiến hành rà soát, điều chỉnh chương trình đào tạo theo chuẩn quốc tế như CDIO, ABET, EUR-ACE. Đồng thời, tăng cường năng lực giảng viên thông qua tập huấn và trao đổi học thuật quốc tế. Đây cũng là giai đoạn thí điểm phương pháp giảng dạy mới như: blended learning, e-learning, ứng dụng AI,...hay nâng cao năng lực ngoại ngữ và xây dựng mối liên kết bước đầu với doanh nghiệp.

Giai đoạn thứ hai là phát triển. Các trường đại học bắt đầu chuẩn hóa chương trình và đăng ký kiểm định quốc tế cho một số ngành trọng điểm, đưa các công nghệ mới như: AI, khoa học dữ liệu, IoT, công nghệ bán dẫn, an ninh mạng vào chương trình đào tạo chính khóa. Đồng thời, hệ thống hạ tầng số, phòng thí nghiệm ảo, Smart Campus được đầu tư mạnh mẽ. Song song với đó, hợp tác quốc tế được mở rộng với các chương trình liên kết 2+2, 3+1, mời chuyên gia nước ngoài giảng dạy, thúc đẩy nghiên cứu và công bố quốc tế của giảng viên.

Giai đoạn ba là hội nhập quốc tế. Hướng tới quốc tế hóa toàn diện, hầu hết ngành kỹ thuật và công nghệ đạt chuẩn kiểm định quốc tế, sinh viên tốt nghiệp được công nhận bằng cấp rộng rãi. Các trường trở thành trung tâm nghiên cứu, đào tạo có uy tín trong khu vực, thu hút sinh viên quốc tế và hợp tác sâu với doanh nghiệp.

Đặc biệt, các trường đại học của Việt Nam cần lưu ý đồng bộ cả 3 yếu tố gồm: chương trình, phương pháp và con người. Trong bối cảnh chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo, cần tận dụng sức mạnh của AI và công nghệ số để tạo môi trường đào tạo thông minh, sáng tạo và hội nhập quốc tế.

Mạnh Dũng