Làm gì để thu hút thí sinh giỏi theo học các ngành khoa học cơ bản?

15/09/2024 07:32
Lương Hiền

GDVN - Nhiều ý kiến đề xuất nên có các chính sách phát triển ngành khoa học cơ bản tương tự như đối với ngành sư phạm để thu hút người học hơn trong tương lai.

Các ngành khoa học cơ bản là nền tảng, là trụ cột phát triển của nền công nghiệp, kỹ thuật của mỗi quốc gia. Việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho các ngành khoa học cơ bản là rất cần thiết. Tuy nhiên, nhiều năm qua, các ngành khoa học cơ bản dường như giảm sức hút đối với giới trẻ. Nhiều thí sinh chạy theo các ngành hot, có cơ hội việc làm cao hơn.

Nhiều ý kiến đề xuất nên có thêm các chính sách ưu tiên để thu hút người học vào các ngành khoa học cơ bản.

Tình hình tuyển sinh các ngành khoa học cơ bản năm 2024

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Giáo sư, Tiến sĩ Lê Thanh Sơn, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội cho biết, năm học 2024 - 2025, nhà trường tuyển sinh 1850 chỉ tiêu với 27 ngành đào tạo. Nhìn chung tình hình tuyển sinh các ngành khoa học cơ bản năm 2024 chia thành hai chiều hướng rõ rệt.

Các ngành Toán học, Vật lý, Hóa học và Sinh học tuyển sinh tốt với điểm chuẩn cao, số lượng thí sinh nhập học đều đạt và vượt nhẹ chỉ tiêu. Trong khi các ngành khối khoa học trái đất điểm chuẩn chỉ ở ngưỡng đảm bảo chất lượng hoặc không cao và số sinh viên trúng tuyển nhập học chỉ đạt và có ngành không đạt chỉ tiêu.

Giáo sư, Tiến sĩ Lê Thanh Sơn, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. (Ảnh: NVCC)
Giáo sư, Tiến sĩ Lê Thanh Sơn, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. (Ảnh: NVCC)

Cụ thể, thầy Sơn cho biết, ngành Toán học tại trường năm nay có điểm chuẩn là 34,45 điểm (thang điểm 40), chỉ tiêu của trường là 50, số thí sinh trúng tuyển là 59, đạt 118%.

Ngành Hóa học có điểm chuẩn là 25,15 điểm, chỉ tiêu của trường là 105, số sinh viên trúng tuyển là 116, đạt tỉ lệ 110,5%.

Ngành Sinh học có điểm chuẩn 23,35 điểm, chỉ tiêu của trường là 95, số thí sinh trúng tuyển là 99, đạt tỉ lệ 104,2%.

Ngành Địa lý tự nhiên có điểm chuẩn là 22,4 điểm, chỉ tiêu của trường là 30, số thí sinh trúng tuyển là 30, đạt 100% chỉ tiêu.

Ngành Hải dương học có điểm chuẩn là 20 điểm, chỉ tiêu của trường là 25, số sinh viên trúng tuyển là 18, đạt tỉ lệ 72%.

Ngành Tài nguyên và môi trường nước có điểm chuẩn là 20 điểm, chỉ tiêu của trường là 25, số thí sinh trúng tuyển là 11, đạt tỉ lệ 44%.

Ngành Địa chất có điểm chuẩn là 20 điểm, chỉ tiêu của trường là 30, số thí sinh trúng tuyển là 11, đạt tỉ lệ 36,7%.

Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội cũng cho biết thêm, trong những năm gần đây, công tác quảng bá tuyển sinh của trường đã được tiến hành đồng bộ, liên tục trong năm, ở cả không gian mạng và các địa phương, các trường trung học phổ thông… Kết quả là số lượng nguyện vọng và thí sinh tăng đều hàng năm, điểm tuyển sinh đầu vào ở mức tốt đối với một số ngành.

Trong khi đó, Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đức Khoát, Trưởng phòng đào tạo, Trường Đại học Mỏ - Địa chất cho biết, nhà trường đặc biệt chú trọng vào việc hợp tác với doanh nghiệp, viện nghiên cứu, đồng thời định hướng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho các ngành khoa học cơ bản với quy mô vừa phải. Mặc dù nhiều năm trước, tỉ lệ thí sinh đăng ký tuyển sinh các ngành khoa học cơ bản thấp nhưng năm nay đã có sự cải thiện đáng kể.

Theo đó, năm học 2024 - 2025, tỷ lệ thí sinh trúng tuyển các ngành khoa học cơ bản của Trường Đại học Mỏ - Địa chất đạt trên 90%.

“Những năm gần đây, nhà trường đã tuyển sinh các ngành khoa học cơ bản với chỉ tiêu vừa phải. Quan điểm của nhà trường là đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao thay vì số lượng. Chính vì thế, nhà trường thường xuyên phân tích và đặt ra chỉ tiêu cần tuyển phù hợp với nhu cầu thực tế”, Trưởng phòng đào tạo, Trường Đại học Mỏ - Địa chất thông tin.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đức Khoát - Trưởng phòng Đào tạo, Trường Đại học Mỏ - Địa chất (Ảnh: Website nhà trường)
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đức Khoát - Trưởng phòng Đào tạo, Trường Đại học Mỏ - Địa chất (Ảnh: Website nhà trường)

Nguyên nhân khiến các ngành khoa học cơ bản giảm sức hút

Theo Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, nguyên nhân khiến các ngành khoa học cơ bản khó thu hút sinh viên hơn so với các ngành khác là do thực tế của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; môi trường xã hội số đang phát triển với tốc độ nhanh. Xu hướng của xã hội thay đổi tác động đến sở thích của người học. Thu nhập và cơ hội việc làm sau khi ra trường chưa cao cũng là một nguyên nhân khiến các ngành này giảm sức hút.

Trong khi đó, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đức Khoát cho rằng, nguyên nhân chính dẫn tới việc các ngành khoa học cơ bản giảm sức hút là do đa phần học sinh chạy theo những ngành “hot” như Công nghệ thông tin, Truyền thông, Tài chính - Ngân hàng. Nếu muốn thu hút người học theo học các ngành khoa học cơ bản sẽ phải mất một thời gian dài.

Đồng thời, thầy Khoát cũng chỉ ra một số thách thức mà các ngành khoa học cơ bản gặp phải hiện nay.

Thứ nhất, sự đầu tư từ Nhà nước cho các ngành khoa học cơ bản còn hạn chế, chủ yếu tập trung vào các ngành ứng dụng công nghệ.

Thứ hai, sự tham gia và đầu tư từ các doanh nghiệp vào lĩnh vực này còn rất thấp, họ chủ yếu tập trung vào đào tạo lại nhân lực theo nhu cầu của riêng mình.

Thứ ba, việc thu hút sinh viên vào các ngành khoa học cơ bản gặp nhiều khó khăn do thiếu định hướng và truyền thông tích cực về vai trò của lĩnh vực này.

Thứ tư, chất lượng đầu vào của sinh viên các ngành khoa học cơ bản chưa cao, trong khi quy mô đào tạo lại rất nhỏ.

Thứ năm, thiếu sự kết nối và hợp tác chặt chẽ giữa các trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.

Cùng bàn về vấn đề này, chuyên gia giáo dục Bùi Khánh Nguyên cho rằng, ngành khoa học cơ bản gặp khó khăn trong thu hút nhân lực vì phạm vi áp dụng rất hạn chế, môi trường làm việc cực nhọc, lương không đủ hấp dẫn và thiếu chính sách hỗ trợ, cấp học bổng.

“Không ít học sinh có tố chất về nghiên cứu khoa học hoặc một lĩnh vực khoa học cơ bản như toán, thiên văn, vật lý, hải dương học... Nhưng nếu cơ hội làm việc đối với những ngành học sinh đam mê thấp thì các em có nhiều khả năng sẽ chọn học ngành dễ tìm kiếm việc làm hơn. Tôi cho rằng đây là sự mất mát lớn đối với xã hội”, thầy Nguyên bày tỏ.

unnamed (27).png
Chuyên gia giáo dục Bùi Khánh Nguyên. (Ảnh: NVCC)

Cũng theo thầy Nguyên, hiện nay, cơ hội việc làm của các ngành khoa học cơ bản so với những ngành nghề khác trong xã hội chưa cao. Do đó, không nên vận động nhiều sinh viên theo học ngành khoa học cơ bản nếu số lượng công việc của ngành chưa thực sự nhiều. Cần thu hút người có chất lượng vào ngành khoa học cơ bản thay vì thu hút số lượng.

Cần có sự phối hợp giữa nhà trường, doanh nghiệp và các viện nghiên cứu

Theo Trưởng phòng đào tạo, Trường Đại học Mỏ - Địa chất, để các ngành khoa học cơ bản phát triển cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, viện nghiên cứu và các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, không thể phó thác hoàn toàn vào sự hỗ trợ của nhà nước, vì như vậy sẽ không khai thác được hết giá trị tiềm năng của ngành.

Tại nhiều nước trên thế giới, sự phối hợp của doanh nghiệp trong đào tạo các ngành khoa học cơ bản rất lớn. Nhưng ở Việt Nam, sự phối hợp của doanh nghiệp với các cơ sở giáo dục còn chưa cao. Vẫn còn nhiều doanh nghiệp tuyển dụng cử nhân ngành khoa học cơ bản và phải đào tạo lại nhân lực mới đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp. Vì vậy, cần thiết lập mối quan hệ hợp tác chặt chẽ hơn với doanh nghiệp và các cơ quan liên quan để xây dựng các chương trình đào tạo và nghiên cứu phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp và xã hội. Đồng thời, cần xác định được định hướng trong 10 năm tới về nguồn nhân lực của ngành khoa học cơ bản.

“Tôi ủng hộ việc có thêm chính sách đãi ngộ cho các ngành khoa học cơ bản. Mặc dù Đảng và Nhà nước đã quan tâm và đưa ra nhiều chính sách hỗ trợ, nhưng để ngành khoa học cơ bản phát triển mạnh mẽ hơn, cần sự đồng hành và hỗ trợ từ các tổ chức nghiên cứu, các doanh nghiệp trong và ngoài nước, đặc biệt là trong đào tạo nhân lực chất lượng cao”, thầy Khoát nhấn mạnh.

Theo thầy Khoát, để phát triển các ngành Khoa học cơ bản, trước mắt cần có sự đồng hành và đầu tư mạnh mẽ hơn từ Nhà nước, doanh nghiệp và các trường đại học/viện nghiên cứu; tiếp tục tăng cường truyền thông và định hướng xã hội về vai trò quan trọng của khoa học cơ bản đối với sự phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng các chính sách ưu đãi và môi trường làm việc hấp dẫn để thu hút và giữ chân các nhà khoa học giỏi; tăng cường hợp tác giữa các trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp trong đào tạo và nghiên cứu khoa học cơ bản; điều chỉnh quy mô đào tạo các ngành khoa học cơ bản phù hợp với nhu cầu thực tế của xã hội và thị trường lao động.

Cũng theo Trưởng phòng đào tạo, Trường Đại học Mỏ - Địa chất, phát triển các ngành khoa học cơ bản ở Việt Nam là một thách thức lớn nhưng cũng là cơ hội để nâng cao năng lực nghiên cứu và đổi mới sáng tạo, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước.

Trong khi đó, chuyên gia giáo dục Bùi Khánh Nguyên nhận định, để khuyến khích người học vào các ngành khoa học cơ bản cần có các chính sách điều chỉnh như cấp học bổng. Trước mắt có thể xem xét đến các chính sách hỗ trợ tương tự như Nghị định 116/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định về chính sách hỗ trợ tiền đóng học phí, chi phí sinh hoạt đối với sinh viên sư phạm.

Chuyên gia giáo dục Bùi Khánh Nguyên cho rằng, Việt Nam có truyền thống coi trọng nghề dạy học, người thầy từ xưa đến nay luôn được xã hội tôn vinh. Tuy nhiên, thực tế, ngành sư phạm khá cực khổ, giáo viên phải làm việc trong điều kiện chưa hấp dẫn, đãi ngộ không tốt nên nhiều giáo viên lựa chọn ngành nghề khác có thu nhập cao hơn. Nhưng khi cả xã hội có tín hiệu “chăm sóc” ngành sư phạm trở lại bằng nhiều chính sách thu hút ngay lập tức số lượng những người đăng ký vào ngành sư phạm nhiều hơn.

Việc điều chỉnh chính sách như tăng lương cho giáo viên đã giúp thu hút nhiều người vào ngành sư phạm. Chính phủ cần áp dụng cách tiếp cận tương tự với các ngành khoa học cơ bản. Tuy nhiên, chỉ có chính sách ưu đãi thì chưa đủ, mà cần đảm bảo môi trường làm việc, cơ sở vật chất và điều kiện làm việc tốt để thu hút và giữ chân những nhà khoa học giỏi.

“Cần có sự xem xét lại về cách thức đào tạo, các trường đại học phải đánh giá đã thực sự là một tổ chức nghiên cứu hay chưa. Một trường đại học hàng đầu cần có công trình nghiên cứu khoa học đạt tiêu chuẩn quốc tế thì đất nước mới phát triển, nếu không sẽ bị tụt hậu.

Nghiên cứu khoa học cơ bản cực kỳ quan trọng và cần thu hút được những người tài năng nhất tham gia vào việc nghiên cứu. Nếu đãi ngộ không tốt sẽ khó thu hút được người có trình độ cao. Nếu nhân lực chưa đủ chất lượng làm nghiên cứu có thể dẫn đến các công trình khoa học không mang lại giá trị. Do đó, để phát triển các ngành khoa học cơ bản cần có sự đầu tư nghiêm túc và có chính sách thu hút nhân tài”, thầy Nguyên nhận định.

gdvn-1-2065-6094.jpg
Để phát triển các ngành khoa học cơ bản cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, doanh nghiệp và viện nghiên cứu. (Ảnh minh họa: Phương Linh)

Cũng theo thầy Nguyên, các trường đại học cần tăng cường công tác truyền thông, hướng nghiệp để sinh viên hiểu rõ hơn về các ngành học, đặc biệt là ngành khoa học cơ bản; cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các trường đại học và trường trung học phổ thông trong công tác hướng nghiệp, giúp học sinh có thời gian lựa chọn ngành phù hợp với năng lực và sở thích của bản thân; các trường đại học cần đào tạo gắn với nhu cầu thực tế của xã hội, tránh tình trạng sinh viên ra trường không đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động.

Việc đầu tư cho nghiên cứu khoa học cơ bản là rất quan trọng, nhưng cần phải đảm bảo chất lượng và hiệu quả của các công trình nghiên cứu. Các viện nghiên cứu và trường đại học cần phải chứng minh được giá trị khoa học và thực tiễn của các công trình nghiên cứu, góp phần giải quyết các vấn đề thực tế của đất nước. Cần có sự đánh giá chặt chẽ về chất lượng và tác động của các công trình nghiên cứu, không chỉ dựa trên số lượng mà còn phải xem xét tính ứng dụng và công nhận quốc tế.

Để thu hút và giữ chân những nhà khoa học giỏi vào các ngành khoa học cơ bản, cần sự phối hợp đồng bộ giữa chính sách của Nhà nước, hoạt động của các cơ sở giáo dục và hiệu quả thực tiễn của các công trình nghiên cứu khoa học. Chỉ khi các yếu tố này được kết hợp chặt chẽ, Việt Nam mới có thể phát triển mạnh mẽ về khoa học và công nghệ.

Lương Hiền