Chiến lược chèn ép của Trung Quốc nhằm thôn tính Biển Đông

06/07/2011 01:44
Mục tiêu chính của Trung Quốc là nhằm kiểm soát con đường hàng hải quốc tế, đi từ Trung cận đông qua eo biển Malacca, đi qua Biển Đông, dọc theo Trường Sa.

Mục tiêu chính của Trung Quốc là nhằm kiểm soát con đường hàng hải quốc tế, đi từ Trung cận đông qua eo biển Malacca, đi qua Biển Đông, dọc theo Trường Sa, tiếp đến là qua Hoàng Sa.

{iarelatednews articleid='6607,6362,5102,5006,4933,4824'}

Con đường biển này ngày càng trở nên có tính sống còn với Trung Quốc. Nhưng nó cũng có tính chất sống còn với Mỹ, Nhật và các nước trong vùng. Một sự hợp tác an ninh hàng hải quốc tế giữa Trung Quốc với Mỹ, Nhật và ASEAN sẽ là lý tưởng cho sự ổn định và phồn thịnh của khu vực. Nhưng việc biến vùng biển quốc tế đó thành lãnh hải thuộc địa phận Trung Quốc, lại là một bảo đảm an ninh hơn cho Trung Quốc, với cái giá là chủ quyền của các nước nhỏ hơn trong khu vực bị xâm hại.

Nói khác đi, chúng ta đang chứng kiến một tiến trình mà Trung Quốc đang tìm cách chèn ép các nước nhỏ để vẽ lại bản đồ khu vực. Sự chèn ép, hay tranh chấp song phương về chủ quyền biển đảo, quyền khai thác dầu và đánh bắt cá, chỉ là bước đi ban đầu, được lồng trong một tranh chấp lớn hơn về quyền kiểm soát đường hàng hải chiến lược đi qua Biển Đông.

Chèn ép song phương, Trung Quốc kỳ vọng gì?
 

Các tàu hải giám Trung Quốc gây hấn cắt cáp tàu thăm dò Bình Minh của Việt Nam cuối tháng 5.2011.
Các tàu hải giám Trung Quốc gây hấn cắt cáp tàu thăm dò Bình Minh của Việt Nam cuối tháng 5.2011.



Để tránh một cuộc xung đột về quyền tự do hàng hải trong tương lai, chúng ta phải hiểu rõ sự được mất của mỗi bên trong cuộc chơi chèn ép về chủ quyền song phương mà Trung Quốc đang tiến hành. Trung Quốc kỳ vọng gì? Và tại sao đó lại là các bước đệm ngắn hạn cho việc đạt mục tiêu dài hạn của Trung Quốc? Việc trả lời các câu hỏi như vậy sẽ cho phép tìm ra cơ chế thúc đẩy an ninh khu vực, thông qua các giải pháp thương lượng hoà bình.

Để cụ thể, hãy nhìn lại vụ Trung Quốc cắt cáp thăm dò dầu khí của tàu Bình Minh 2, Viking 2 của Việt Nam; hoặc việc Trung Quốc cho xây dựng cột sắt và thả phao ở bãi Amy Douglas, hay cho tàu bắn xuống nước, xua đuổi tàu đánh bắt cá của ngư dân Việt Nam, Philippines ngay tại vùng biển của các nước này.

Trước các hành động gây hấn như vậy của Trung Quốc, phía Việt Nam và Philippines có thể có bốn lựa chọn chính: thứ nhất, không có phản ứng gì. Thứ hai, ra công hàm phản đối hành động gây hấn của Trung Quốc trên các diễn đàn song phương hoặc đa phương, như tại Liên hiệp quốc. Thứ ba, đem vụ việc ra kiện ở Toà án quốc tế. Thứ tư, có hành động tự vệ một cách thích hợp, như việc Philippines cho nhổ các cột sắt, hoặc cho bắt giữ tàu đánh cá Trung Quốc xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và đòi xử họ theo luật.

Phản ứng cách nào Việt Nam/Philippines vẫn bị xâm hại nhưng nếu theo cách tự vệ đơn phương thì sự bị thôn tính sẽ diễn ra nhanh hơn.

Cần phải nói rằng, nếu vụ việc chỉ gói gọn trong xung đột có tính song phương, thì việc ra công hàm phản đối cũng gần giống như không làm gì cả. Mặt khác, việc đem ra kiện tại Toà án quốc tế về tranh chấp đánh bắt cá hay khai thác dầu thường hết sức tốn kém, mất thời gian và dễ bị làm cho rối rắm, do luật quốc tế không thể đủ chi tiết để áp dụng ngay cho việc xử các vụ kiện như vậy.

Thêm vào đó, khi xảy ra một chuỗi các vụ tranh chấp liên tiếp, thì tính phức tạp của vụ việc sẽ tăng. Điều đó dĩ nhiên chỉ có lợi cho bên lớn hơn – dùng sức mạnh mềm để chèn ép, hơn là bên nhỏ hơn – bị xâm hại và đem vụ việc ra kiện.

Như vậy, xét trên quan điểm của Trung Quốc, việc gây hấn về quyền đánh bắt cá hay khai thác dầu trong vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia nhỏ hơn trên Biển Đông sẽ có lợi ở chỗ: (i) Trung Quốc có thể giữ cho mức độ xung đột đủ nhỏ, để mâu thuẫn mang tính song phương, mà phía bị xâm hại ít làm được gì để thay đổi cục diện tình hình; và (ii) Chuỗi xung đột nếu đủ liên tục và đều khắp ở các điểm chiến lược trên Biển Đông, sẽ biến các sự việc đã rồi thành quyền kiểm soát trên thực tế đối với việc khai thác các nguồn lợi mang tính loại trừ.

Nói rõ hơn, việc Philippines xua đuổi tàu cá Trung Quốc hay nhổ cọc ở bãi đá mà Trung Quốc vừa dựng lên chỉ làm tăng rủi ro bị Bắc Kinh tố cáo trên khắp các phương tiện đại chúng, mà tiền bạc và sức mạnh mềm làm cho tiếng nói của nó có hiệu lực, rằng Philippines sẽ phải hứng chịu các hành động “chấp pháp” của Trung Quốc. Sức mạnh quân sự vượt trội và ngày càng mạnh của Trung Quốc khiến cho nước nhỏ trong vùng phải đối mặt với rủi ro là sẽ chịu tổn thất rất lớn, nếu một mình dám cưỡng lại hành động “chấp pháp” của Trung Quốc. Nhìn trước kết cục như vậy, nước nhỏ đó có thể phải ngồi yên không làm gì, ngoài việc ra công hàm phản đối, mà về thực chất cũng là không làm gì, như đã nói.

Chính vì logic của sự chèn ép đó, mà Việt Nam ngồi yên khi Trung Quốc ra lệnh cấm bắt cá trong thời gian dài, trên một vùng biển rộng lớn, bao gồm cả thềm lục địa của Việt Nam. Cam chịu sẽ dần biến thành sự buộc phải chấp thuận quyền kiểm soát trên thực tế của Trung Quốc đối với Biển Đông. Khi đó, việc có hay không các công ước về Luật biển, bao hàm cả UNCLOS 1982, thì cũng chẳng thể làm được gì nhiều để thay đổi một thực tế: đường lưỡi bò đã được xác lập dần trên thực tế.

Điều đó bao hàm rằng, đường hàng hải chiến lược đi qua Biển Đông dần sẽ thuộc về Trung Quốc. Các nước khác sẽ buộc phải tuân thủ trật tự mới (unirule), được cưỡng chế bởi sức mạnh quân sự của Trung Quốc, theo dự đoán là có thể thách thức Mỹ ở Tây Thái Bình Dương vào năm 2030.

Chiến lược chèn ép của Trung Quốc

Việc Trung Quốc thời gian gần đây phô trương sức mạnh khiến nhiều quốc gia quan ngại. Ảnh: tàu Hải tuần 31 của Trung Quốc ngang nhiên "kiểm tra", "giám sát" ở vùng biển đang nằm trong vòng tranh chấp.

Ngay sau vụ việc Trung Quốc xâm hại quyền khai thác tài nguyên mang tính loại trừ, như đánh bắt cá hoặc khai thác dầu của Việt Nam/ Phillipines, nếu không gặp phải phản ứng gì thì Trung Quốc sẽ ghi được 1 điểm trong chuỗi các bước chèn ép nhằm thôn tính Biển Đông. Trong hoàn cảnh đó, Việt Nam/Philippines bị mất 1 điểm trong việc bảo vệ chủ quyền. Hay nói rõ hơn, Việt Nam/Phillipines đã bị tước mất một phần quyền được khai thác tài nguyên trên lãnh thổ, bao gồm biển đảo mà dân cư mình sinh sống.

Một lựa chọn khác là thay vì ngồi yên, Việt Nam/Philippines có thể có phản ứng tự vệ một cách thích hợp, phù hợp với thoả thuận khu vực và công ước quốc tế. Ngay sau khi vấp phải sự phản ứng tự vệ đó của Việt Nam/Phillipines, Trung Quốc có thể đáp lại bằng hai cách: Thứ nhất, tôn trọng cam kết của mình về tuyên bố ứng xử Biển Đông (DOC) và công ước của Liên hiệp quốc về Luật biển (UNCLOS 1982). Khi đó, các bên đạt được sự hoà giải sau xung đột vừa xảy ra. Trung Quốc không ghi thêm được điểm nào trong chuỗi các bước thôn tính Biển Đông (ghi điểm 0). Và Việt Nam/Philippines cũng không bị mất điểm về chủ quyền (tức là “mất” 0 điểm).

Ngược lại, Trung Quốc có thể nuốt lời hứa tôn trọng DOC và luật quốc tế UNCLOS 1982. Cụ thể là Trung Quốc tô vẽ lại vụ việc xung đột vừa xảy ra như mình là bên bị xâm hại và vì vậy, buộc phải có hành động “chấp pháp”. Khi làm như vậy, Trung Quốc đã liên tiếp xâm phạm luật pháp quốc tế và chủ quyền của quốc gia nhỏ hơn. Với sự bất cân xứng về sức mạnh kinh tế và quân sự, phần thắng trong xung đột song phương sẽ thuộc về kẻ nào mạnh hơn, bất kể công lý. Cụ thể là, Trung Quốc ghi được 2 điểm liên tiếp trong chuỗi các bước thôn tính Biển Đông. Việt Nam/Philippines bị mất 2 điểm.

Ứng phó để tối thiểu hóa thiệt hại

Ta có thể thấy là, nếu Việt Nam/Philippines phản ứng tự vệ một cách đơn phương, thì sự thôn tính sẽ diễn ra nhanh hơn. Trung Quốc nhất định sẽ nuốt lời hứa, chà đạp lên DOC hay UNCLOS 1982. Vấn đề là Trung Quốc sẽ đẩy nhanh gấp hai lần nhịp độ thôn tính Biển Đông, nếu phá thoả thuận và luật hơn là tôn trọng chúng. Nhìn trước kết cục như vậy, Việt Nam/Philippines không được phép kỳ vọng rằng, Trung Quốc sẽ thực hiện những gì họ đã cam kết. Nhưng nếu vậy thì ngay từ đầu, khi vừa xảy ra việc Trung Quốc gây hấn (cắt cáp thăm dò dầu, dùng súng bắn đuổi dân chài), Việt Nam/Philippines sẽ chọn việc gửi công hàm phản đối, mà không có hành động tự vệ. Kết cục là Trung Quốc chỉ ghi được 1 điểm. Việt Nam/Philippines chỉ bị mất có 1 điểm về bảo vệ chủ quyền. Dù sao đi nữa, Việt Nam/Philippines vẫn bị xâm hại.

Dĩ nhiên Trung Quốc và Việt Nam/Philippines có thể ký kết một thoả thuận mang tính pháp lý. Theo đó, Việt Nam/Philippines có thể đem kiện Trung Quốc ra Toà án quốc tế, nếu Trung Quốc tái vi phạm công ước pháp lý vừa được ký kết. Những thoả thuận pháp lý kiểu như vậy không thể tính hết được mọi tình huống tranh chấp phức tạp, có thể xảy ra trong tương lai (bounded rationality). Trung Quốc có thể lợi dụng những tình huống không được ghi rõ trong thoả thuận như là một kẽ hở về xác định chủ quyền để tiếp tục chèn ép Việt Nam/Philippines, bất chấp công ước đã ký kết.

Nhưng mặt khác, việc đạt được một thoả thuận có tính pháp lý như vậy sẽ làm tăng tính đạo lý và cơ sở pháp lý (legitimacy) về chủ quyền của Việt Nam/Philippines với các vùng biển đảo của mình. Nó sẽ là cơ sở cho việc thiết lập quan hệ hợp tác chiến lược trong khu vực và trên trường quốc tế để bảo vệ chủ quyền chính đáng của Việt Nam/Philippines. Nếu tính cả đến eo biển Malacca, mà nó sẽ là cái đích tiếp theo trong chiến lược Trung Quốc muốn kiểm soát đường hàng hải cho riêng mình, thì một liên minh phi chính thức bao gồm Indonesia, Malaysia, Philippines và Việt Nam đã được hình thành.

Cuộc chơi tự nó đã có tính đa phương và sẽ phải giải quyết trong khuôn khổ hợp tác đa phương. Chính ở điểm này, nếu sự chèn ép của Trung Quốc trong quan hệ song phương càng thô bạo, thì hành động của họ càng đi ngược đạo lý và càng đặt ra những tiền lệ nguy hiểm cho tự do và an toàn hàng hải quốc tế. Trên quan điểm đa phương mang tính thực tiễn đó, sự chèn ép nhằm thôn tính Biển Đông của Trung Quốc sẽ vấp phải sự phản đối ngày càng mạnh mẽ hơn của cộng đồng quốc tế và khó có thể thực hiện được.

(còn tiếp)

Theo TS Lê Hồng Nhật/SGTT