Ngày 16/11, sau phần trả lời của Bộ trưởng Tài chính - ông Đinh Tiến Dũng, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ đã báo cáo Quốc hội, làm rõ thêm về việc quản lý thu chi ngân sách nhà nước gắn với bảo đảm an toàn bền vững nợ công giai đoạn từ nay tới năm 2020.
Phó Thủ tướng cho biết hiện nay nợ công ở mức 62,6% dưới mức trần cho phép của Quốc hội (65%), trong đó nợ của Chính phủ đang là 51,8%, tỷ lệ chi trả nợ vay/GDP là 25%.
Nhận thức được tầm quan trọng của nợ công, Đại hội Đảng lần thứ XII đánh giá nợ công tăng cao, nghĩa vụ trả nợ lớn và cơ cấu lại thu chi ngân sách nhà nước gắn với bảo đảm an toàn nợ công là nhiệm vụ trọng tâm của giai đoạn 2016-2020.
Trong giai đoạn này, Chính phủ phải thực hiện nhiệm vụ kép vừa bảo đảm đất nước phát triển nhanh, bền vững, vừa tập trung giải quyết những yếu kém tích tụ từ nhiều năm trước.
Trong khi đó, dư địa chính sách tài khóa, tiền tệ chật hẹp và kinh tế thế giới còn khó khăn nên xử lý nợ công là vấn đề nan giải.
“Nhiều thành viên của Chính phủ, một số đại biểu Quốc hội và một số chuyên gia kinh tế đã khuyến cáo Chính phủ trình Trung ương và Quốc hội nới trần nợ công để đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước, bảo đảm quốc phòng, an ninh và an sinh xã hội.
Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã tính toán kỹ và thấy rằng trần nợ công chỉ là một yếu tố và quan trọng là khả năng trả nợ.
Tổng trả nợ từ ngân sách và vay trả nợ không được quá 25% so với tổng thu ngân sách. Do đó, Chính phủ nói không với tăng trần nợ công”, Phó Thủ tướng cho biết.
Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ khẳng định: Chính phủ nói không với tăng trần nợ công. ảnh: Trung tâm thông tin Quốc hội. |
Để bảo đảm an toàn nợ công, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Tài chính chủ trì xây dựng đề án cơ cấu lại thu chi ngân sách gắn với quản lý an toàn nợ công và Bộ Chính trị đã thông qua Nghị quyết số 07 về vấn đề này.
Đây là lần đầu tiên Trung ương có nghị quyết chuyên đề về nợ công. Chính phủ cũng trình Quốc hội kế hoạch về đầu tư công trung hạn, kế hoạch tài chính công trung hạn với mục đích bảo đảm cân đối ngân sách là tích cực nhất, bảo đảm an ninh tài chính quốc gia với mục tiêu cụ thể là tỷ lệ huy động vào ngân sách 21% GDP, tổng thu giai đoạn 2016-2020 tăng 1,65 lần so với giai đoạn trước và cơ cấu lại các khoản thu từ ngân sách.
Trong đó giảm thu từ dầu thô, tăng thu từ nội địa, giữ chi ngân sách ở khoảng 24% GDP và trong đó chi đầu tư phát triển chiếm 24-25%, chi thường xuyên dưới 64%, giảm bội chi tới năm 2020 là 3,5% GDP.
12 chỉ tiêu kinh tế - xã hội trong năm 2018 |
Quy mô nợ công không quá 65%, nợ Chính phủ không quá 54%, nợ nước ngoài của quốc gia không quá 50% GDP.
Trên cơ sở Nghị quyết của Bộ Chính trị và Quốc hội, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 51 về Chương trình hành động thực hiện chủ trương với giải pháp đặt trong đề án tổng thể về tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Nghị quyết của Bộ Chính trị coi tiết kiệm là quốc sách hàng đầu, chỉ tiêu trong khả năng của nền kinh tế, vay khi có khả năng trả nợ. Giải quyết hài hoà các vấn đề cấp bách trước mắt và giải pháp căn cơ lâu dài, siết chặt kỷ cương, tăng cường trách nhiệm giải trình.
Trong thu chi ngân sách sử dụng vốn vay và quản lý nợ công thì hạn chế và tiến tới xoá bỏ cơ chế "xin - cho".
Về các nhóm giải pháp chính, thay mặt Chính phủ, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ nói thêm một số giải pháp mà Chính phủ thực hiện tới năm 2020 là kiên định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tạo môi trường phát triển kinh tế, xã hội, tạo nguồn thu vững chắc cho ngân sách.
Phối hợp hài hoà chính sách tài khoá tiền tệ cũng như chính sách vĩ mô khác và coi đây là giải pháp của mọi giải pháp.
Thứ hai, đẩy mạnh tái cơ cấu gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả cạnh tranh để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững.
Chính phủ tán thành ý kiến đại biểu Quốc hội rằng vay không quan trọng mà quan trọng là hiệu quả sử dụng vốn vay.
Chúng ta vay để không tụt lại mà để phát triển bền vững ba trụ cột kinh tế, xã hội và môi trường, trong đó có nợ công.
Thứ ba là tuyên truyền, giáo dục sâu rộng về nghĩa vụ nộp thuế, sử dụng nợ công, đẩy mạnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Thứ tư, tập trung cơ cấu lại thu chi ngân sách nhà nước, tăng cường quản lý nợ công, bảo đảm an toàn bền vững nền tài chính quốc gia theo hướng hoàn thiện chính sách thu hướng tới bao quát các nguồn thu, mở rộng cơ sở thuế, chống xói mòn cơ sở thuế, tăng cường chống thất thu và giải quyết nợ đọng thuế để tăng thu hơn là tăng thuế suất. Đây là chủ trương của Chính phủ.
Đương nhiên giảm thuế quan thì phải tính toán điều chỉnh các khoản thu thuế nội địa nhưng các khoản thu liên quan tới VAT và thuế thu nhập doanh nghiệp là hết sức thận trọng.
Chúng ta giảm thuế để nuôi dưỡng nguồn thu, do đó, thay cho việc trước mắt bị hụt khoản thu thì phải mở rộng cơ sở thuế và chống xói mòn cơ sở thuế, nhất là quản lý chứng từ hoá đơn, quản lý khu vực kinh tế phi chính thức để có nguồn thu lâu dài.
Trong chống gian lận thuế, với khối FDI phải đẩy mạnh hơn việc chống chuyển giá, thực hiện đăng ký giá trước theo luật quản lý thuế. Với thu nội địa thì tăng cường quản lý kinh tế phi chính thức, tăng cường chế độ hoá đơn điện tử. Với hải quan thì có 2 vấn đề trọng điểm là áp đúng mã HS và kê khai giá tính thuế.
Thứ năm, từng bước cơ cấu lại chi ngân sách, giảm tỷ trọng chi thường xuyên. Trước đây mỗi năm chi thường xuyên chiếm tới gần 70% tổng mức chi ngân sách nhà nước thì năm 2017 chỉ còn chiếm 64,9% và dự kiến năm 2018 giảm còn 64% và tiếp tục giảm trong những năm tới.
Chính phủ tiếp tục trình Quốc hội sửa Luật Quản lý nợ công, bảo đảm công cụ chính sách chỉ tiêu giám sát nợ công, tập trung cơ cấu lại nợ công theo hướng tăng tỷ trọng nợ trong nước và giảm nợ nước ngoài để giảm rủi ro; chuyển nợ ngắn hạn thành dài hạn, chuyển khoản nợ lãi cao sang các khoản nợ lãi thấp; giảm nợ Chính phủ bảo lãnh, lấy dư địa tăng các khoản vay khác của Chính phủ.
Trong năm 2016, Chính phủ chỉ duyệt cấp 1 dự án cấp bảo lãnh 176 triệu USD và 9 tháng năm 2017 vừa qua, Chính phủ chưa cấp bảo lãnh nào.
Đi liền với đó là giảm vay cấp phát mà cho vay lại với chính quyền địa phương và khối sự nghiệp.