Đến kẻ thù cũng phải thán phục, kính nể

05/10/2013 01:34
BBC
(GDVN) - Đối với người phương Tây, Tướng Võ Nguyên Giáp có lẽ là một hiện tượng đặc biệt trong quân sử thế giới. Ông là vị tướng châu Á được các sử gia và nhà bình luận quân sự phương Tây nhắc đến nhiều nhất từ sau Thế chiến II.
Người ta nhắc đến ông không phải vì ông là đồng minh của các lực lượng quân sự phương Tây mà là một đối thủ lợi hại. Ông Võ Nguyên Giáp được coi là người đã làm thất bại tham vọng tại Đông Dương của hai thế lực quân sự hùng cường nhất thế giới là Pháp và Mỹ trong thời điểm từ 1945 đến 1975.

Một vinh hạnh không kém là ông được sự quí trọng của hai vị tướng tài ba trong quân đội Pháp và Mỹ, đối thủ của ông, đó là các ông Raoul Salan (đại tướng, người chỉ huy quân đội Pháp tại Đông Dương thời điểm 1951-1953) và William Westmoreland (đại tướng, người chỉ quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam thời điểm 1968-1972).

Đại tướng Võ Nguyên Giáp
Đại tướng Võ Nguyên Giáp

Ngoài chức năng điều quân khiển tướng, Võ Nguyên Giáp còn là một cấp lãnh đạo chính trị có tài nói và viết. Tập Hồi ký 1946-1954 gồm 3 tập của ông đã được dịch ra nhiều thứ tiếng.

Hiện nay không biết đã có bao nhiêu sách báo và tài liệu quân sự viết về Võ Nguyên Giáp, nhưng ít nhất đã có trên 120 quyển sách nói về ông, hay chính ông viết ra được dịch sang các thứ tiếng nước ngoài (Pháp, Anh, Ý, Tây Ban Nha, Trung Hoa, Nhật, Ả Rập...và được phổ biến rộng rãi trong các tiệm sách và thư viện.

Sách viết về đại tướng Võ Nguyên giáp thường so sánh ông với những thiên tài quân sự nổi tiếng trên thế giới như với Thomas Edward Lawrence.

Các sử gia và dư luận phương Tây nể trọng ông Võ Nguyên Giáp vì ông là vị tướng "không tốt nghiệp một trường võ bị nào và cũng không bắt đầu sự nghiệp quân sự bằng một chức vụ sĩ quan nào", nhưng đã đánh bại quân đội Pháp tại Điện Biên Phủ (1954) và gây khó khăn cho quân đội Mỹ tại miền Nam Việt Nam trong suốt thời kỳ 1964-1972, tức thời điểm quân đội Hoa Kỳ có mặt đông đảo nhất tại miền Nam Việt Nam.

Trong chiến tranh ở Đông Dương, những vị tướng tài ba của Pháp như Georges Revers, Marcel Carpentier, Henri Navarre với những lực lượng quân sự chuyên nghiệp được trang bị đầy đủ như Lực lượng Viễn chinh (Corps Expéditionnaire), Lê Dương (Légion Etrangère), Nhày Dù... (Bataillons Étrangers Parachutistes) cũng đã không ngăn chặn được những người lính nông dân do tướng Võ Nguyên Giáp dẫn dắt.

Từ 13-3 đến 7-5-1954. Quân đội Pháp cùng với bộ chỉ huy tiền phương tại Điện Biên Phủ, do đại tá de Castries cầm đầu, đã đầu hàng vô điều kiện. Điều không ngờ là người Pháp chấp nhận sự thất trận này một cách tự nhiên, họ không thù oán gì quân đội Việt Minh mà chỉ trách móc các cấp lãnh đạo chính trị và quân sự của họ đã không sáng suốt.

Riêng các tướng Raoul Salan, Christian de La Croix de Castries và rất nhiều tướng tá khác đều hết lời ca ngợi và kính phục Võ Nguyên Giáp.

Đây là một trường hợp hi hữu trong lịch sử quân sự của Pháp nói riêng và của cả châu Âu nói chung. Hầu như các cấp lãnh đạo quân sự của châu Âu đều có cùng nhận định như các đồng sự Pháp. Họ kính nể sự quyết tâm và khả năng huy động người và quân cụ tại Điện Biên Phủ và trong suốt cuộc chiến Đông Dương lần thứ nhất của Võ Nguyên Giáp.

Sau sự thất trận này, dư luận Pháp đã không thù oán gì Việt Nam mà ngược lại còn giữ rất nhiều cảm tình với dân tộc Việt Nam và đất nước Việt Nam. Người Pháp rất quí trọng tinh thần thượng võ của dân tộc Việt Nam : khi chiến đấu thì coi nhau như kẻ thù, giết chóc thẳng tay, tất cả mọi phương tiện đều sử dụng để tiêu diệt kẻ thù; khi hết chiến tranh, con người và đất nước Việt Nam trở nên hiếu khách, sẵn sàng sang trang quá khứ để xây dựng lại đất nước từ những hoang tàn và đổ nát.

Mặc dù đau thương vẫn còn, dân tộc Việt Nam đã rất kiêu hãnh để không van xin giúp đỡ hay đòi bồi thường. Những người đã từng là kẻ thù trước kia có thể trở thành bạn bè thân thiết nếu chấp nhận chia sẻ một tương lai chung Việt Nam.

Người Pháp có lý do để đề cao yếu tố này, vì trong suốt thời gian chiến tranh, từ 1946 đến tháng 7-1954, không một phụ nữ, cụ già hay trẻ em người Pháp nào bị bắt cóc làm con tin hay bị sát hại để trả thù báo oán, như đã từng xảy ra tại Algeria hay những quốc gia Châu Phi những năm sau đó.

Đây chính là điều mà dư luận Pháp nói riêng và phương Tây nói chung quí mến dân tộc Việt Nam.

Trong chiến tranh thì chiến đấu không nương tay, nhưng chỉ giữa những người đàn ông với nhau (la guerre entre les hommes), khi hết chiến tranh thì những đối thủ trước kia có thể trở thành bạn bè một cách dễ dàng. Đó cũng là quy ước danh dự (code of honor) của người lính Việt Nam.



BBC