Siêu hạm mồ côi và "sức mạnh cơ bắp hàng hải" TQ tại biển Đông

13/08/2011 04:21
(GDVN) – Trung Quốc công bố Sách trắng “Ngoại giao Trung Quốc”, chuyên gia Ngoại giao Mỹ nói tiếp về vấn đề Biển Đông, số phận tàu sân bay đầu tiên của TQ...

(GDVN) – Trung Quốc công bố Sách trắng “Ngoại giao Trung Quốc”,  chuyên gia Ngoại giao Mỹ nói tiếp về vấn đề Biển Đông, số phận tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc,…là những thông tin mới nhất tiếp tục được các báo đề cập đến.

Trung Quốc: Vấn đề Biển Đông có thể giải quyết qua đối thoại

Nhiều tờ báo đăng tải thông tin hôm qua, Trung Quốc đã công bố Sách trắng "Ngoại giao Trung Quốc" với mong muốn quảng bá để các nước ASEAN hiểu thêm về chính sách ngoại giao của Trung Quốc.

a
 Các binh sĩ Trung Quốc.

Sách trắng "Ngoại giao Trung Quốc" bản năm 2011 được chính thức phát hành tại Nam Ninh, Quảng Tây.

Phát biểu nhân dịp này, quan chức Bộ Ngoại giao Trung Quốc cho biết Bắc Kinh mong muốn, thông qua hoạt động quảng bá lần này “để cho các nước ASEAN tiếp tục hiểu biết về chính sách ngoại giao của Trung Quốc, hiểu biết các chính sách, biện pháp và nguyện vọng chân thành của Trung Quốc tiếp tục xây dựng kết nối và sâu sắc hợp tác cùng có lợi với các nước xung quanh”.

Quan chức Bộ Ngoại giao Trung Quốc còn cho biết, vấn đề Biển Đông (mà Trung Quốc gọi là Nam Hải) “có thể giải quyết thông qua đối thoại và thương lượng”.

Sách trắng “Ngoại giao Trung Quốc” là một cuốn sách trắng giới thiệu về quan điểm của Chính phủ Trung Quốc đối với tình hình quốc tế trong năm cũng như thực tiễn ngoại giao của Trung Quốc.

Truyền thông Trung Quốc khẳng định đây là một cuốn sách uy tín giới thiệu về quan niệm ngoại giao và chính sách ngoại giao của Trung Quốc.

Sách trắng này mỗi năm ra một cuốn, kể từ năm 1987.

Đại sứ Mỹ tại Philippines: Mỹ không can thiệp vào việc tranh chấp lãnh thổ trên biển Đông nhưng tôn trọng cam kết bảo vệ Philippines.

Theo thông tin từ Dân trí: Mỹ sẽ gửi một trong những sĩ quan quân đội cao cấp nhất cùng một đội tàu sân bay hạt nhân đến Philippines vào tháng này để kỷ niệm 60 năm hiệp ước quốc phòng Mỹ-Phi, động thái cũng nhằm khẳng định thêm mối quan tâm của Mỹ đối với nền quốc phòng Philippines.
 
Phát biểu trước một buổi gặp gỡ của Hội châu Á ngày 12/8 tại Washington, Đại sứ Mỹ tại Philippines, ông Harry K. Thomas Jr. đã nhắc lại lập trường của Mỹ là không can thiệp vào các vụ tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông, nhưng tôn trọng cam kết bảo vệ Philippines.

Theo chương trình dự kiến, Hàng không mẫu hạm nguyên tử USS John Stennis và đội tàu hộ tống sẽ đến Manila vào cuối tháng Tám, để hợp nhất với phần còn lại của Hải đội Tàu sân bay tấn công số 3, bao gồm các tàu tuần dương trang bị tên lửa USS Mobile Bay và các chiến hạm thuộc Đội tàu khu trục Squadron 21 bao gồm các chiếc USS Pinckney, USS Kidd, USS Dewey và USS Wayne Meyer, vốn đã rời căn cứ San Diego Clifornia ngày 29/7 để trực chỉ Biển Đông.

Vào lúc nhiều nước châu Á lo ngại các hành động lấn lướt của Trung Quốc tại Biển Đông, đại sứ Mỹ đã nhấn mạnh rằng: Mỹ sẽ tiếp tục hiện diện quân sự trong khu vực. Ông tiết lộ thêm rằng các chiến hạm Mỹ mỗi năm đều ghé cảng Philippines khoảng một trăm lần.

Philippines là một trong hai quốc gia tại vùng Đông Nam Á đã ký kết Hiệp ước Phòng thủ với Mỹ. Văn kiện mang tên Hiệp ước Tương trợ Quốc phòng Mỹ - Philippines (MDT) đã được ký kết tại Washington DC vào ngày 30/8/1951, tức là cách đây đúng 60 năm.

Sau một thời gian bị lơ là, Hiệp ước MDT gần đây đã được nêu bật trở lại do tình hình tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông, đặc biệt là giữa Philippines và Trung Quốc.

Cựu trợ lý bộ trưởng Ngoại giao Mỹ: Trung Quốc không có quyền sở hữu biển Đông

“Trung Quốc có quyền có một lực lượng Hải quân và quyền tự vệ. Nhưng họ không có quyền giả định rằng họ sở hữu Biển Đông”. Tờ Sài Gòn tiếp thị lược dịch bài phân tích về tham vọng của Trung Quốc với Biển Đông của ông Kim R. Holmes, cựu trợ lý bộ trưởng ngoại giao Mỹ, hiện là phó chủ tịch Heritage Foundation (Quỹ Di sản, một tổ chức nghiên cứu và giáo dục rất uy tín  đăng trên Washington Times ngày 10.8. SGTT lược dịch.

a
Việc Trung Quốc đầu tư mạnh vào Hải quân, và cho chạy thử tàu sân bay đầu tiên làm các nước láng giềng lo ngại. Ảnh: Xinhua

Một lần nữa Trung Quốc đang chứng tỏ sức mạnh cơ bắp hàng hải của mình. Tuần trước, Nhân dân nhật báo đưa ra cảnh báo về "những hậu quả" nếu Bắc Kinh bị thách thức trong vùng biển Đông. Một vài tuần trước đó, một quan chức quân sự hàng đầu của Trung Quốc chỉ trích các cuộc tập trận của hải quân Mỹ tại biển Đông là "không thích hợp" và chê trách Mỹ chi tiêu quá nhiều về quốc phòng.

Vấn đề thực sự là gì? Rất đơn giản, thực sự là Trung Quốc đang khẳng định tuyên bố về chủ quyền đối với hầu hết vùng biển Đông và các đảo trên biển. Điều này không mới mẻ. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, Bắc Kinh đã trở nên hung hăng hơn. Kể từ tháng 2.2011, Trung Quốc đã chín lần thâm nhập vào những khu vực mà Philippines tuyên bố chủ quyền, và đã xâm phạm chủ quyền trên biển với Việt Nam.

Trung Quốc đang khai thác hiệp ước về Luật biển để củng cố tuyên bố của mình với "các vùng biển gần". Họ lập luận rằng theo các hiệp ước về biển, Mỹ không phải là một bên trong khu vực và vì thế các tàu hải quân Mỹ nên bị giới hạn khi hoạt động trong những nơi được xem là "vùng đặc quyền kinh tế" của Trung Quốc.

Thật vậy, Trung Quốc xem biển Đông không đơn thuần là một lĩnh vực độc quyền mà là lãnh thổ có chủ quyền. Tuy nhiên, tham vọng của Trung Quốc không chỉ dừng lại ở đó. Hải quân Trung Quốc được sử dụng để tập trung chủ yếu vào Đài Loan, để bảo đảm cho vùng nước từ Nhật Bản dọc theo chuỗi đảo Ryukyu, qua Đài Loan và Philippines, và kéo đến eo biển Malacca, bao gồm cả vùng biển Đông.

Để kiểm soát khu vực rộng lớn này, Trung Quốc sẽ cần phải kìm chân Hải quân Mỹ, không cho các tàu hải quân Mỹ vào các vùng biển quốc tế này. Nếu Trung Quốc thành công trong việc này, sẽ gây khó cho Hải quân Mỹ và các lực lượng khác hỗ trợ Đài Loan và các đồng minh Nhật Bản và Philippines nếu bị Trung Quốc tấn công.

Theo tác giả bài báo, nếu Trung Quốc cố biến những khu vực biển gần thành sân sau của họ, sẽ gặp phải sự phản kháng của Mỹ. Ảnh: tàu sân bay nguyên tử George Washington của Mỹ rời Yokosuka tiến về Tây Thái Bình Dương, tháng 6.2011. Ảnh: navsource.org
Theo tác giả bài báo, nếu Trung Quốc cố biến những khu vực biển gần thành sân sau của họ, sẽ gặp phải sự phản kháng của Mỹ. Ảnh: tàu sân bay nguyên tử George Washington của Mỹ rời Yokosuka tiến về Tây Thái Bình Dương, tháng 6.2011. Ảnh: navsource.org

Mỹ không thể để các hành động của Trung Quốc gây nguy hiểm cho các cam kết của Mỹ với các đồng minh của mình, cũng như không thể để Trung Quốc ngăn cản quyền tự do hàng hải của Mỹ trên các vùng biển quốc tế. Trung Quốc có quyền có một lực lượng Hải quân và quyền tự vệ. Nhưng họ không có quyền giả định rằng họ sở hữu Biển Đông.

Cản ngại chính trong con đường đầy khát vọng của Bắc Kinh là Hải quân Hoa Kỳ. Để đảm bảo quyền tự do trên các vùng biển ở Thái Bình Dương, Hải quân Mỹ cần thêm nhiều nguồn lực, dù thỏa thuận trần nợ công gần đây đe dọa thu hẹp lực lượng hải quân Mỹ. Hải quân Mỹ có thể sẽ phải từ bỏ việc hiện đại hóa lực lượng chiến đấu trên biển và dưới lòng biển, nếu việc cắt giảm chi tiêu quốc phòng vẫn tiếp tục.

Liệu các tuyên bố của Trung Quốc về các "vùng biển gần" của họ sẽ đưa chúng ta vào một bài học va chạm hay không vẫn là một câu hỏi mở. Tuy nhiên Bắc Kinh nên biết rằng bất kỳ cố gắng để thay đổi các quy tắc và việc biến những khu vực biển này thành sân sau của họ sẽ gặp phải sự phản kháng của Mỹ”. Ông Kim R. Holmes khẳng định.

Varyag - số phận con tàu sân bay mồ côi

Theo thông tin từ VietNamnet: Con tàu chiến Varyag của một siêu cường cũ - Liên Xô - dần được nâng cấp và trở thành tàu sân bay đầu tiên của một siêu cường tương lai - Trung Quốc. Giờ đây, thế giới lại có những lo lắng mới về nó.

Con tàu này từng là một trong những sứ mệnh cuối cùng của hải quân Liên Xô, nhưng công việc xây dựng tại xưởng đóng tàu Mykolaiv ở Biển Đen đã bị ngừng trệ vào năm 1992 khi Liên Xô sụp đổ. Sự “tiều tụy và xuống cấp” của Varyag tiếp tục diễn ra cho tới năm 1998, khi được một công ty Trung Quốc ở Macau có những liên quan chặt chẽ tới hải quân Trung Quốc mua lại từ Ukraine, với tuyên bố sẽ biến nó thành một sòng bạc nổi.
Quan chức Thổ Nhĩ Kỳ từng lo lắng rằng, con tàu 300m này - khi chỉ còn là lớp vỏ gỉ sét, không vũ khí, động cơ hay thiết bị dẫn đường - sẽ bị chìm lúc đi qua eo biển Bosphorus, gây nên vấn đề môi trường và ảnh hưởng tới hàng hải. Bởi thế, họ trì hoãn kế hoạch đi qua eo biển của nó trong 3 năm và chỉ chấp thuận vào năm 2001 để nó tiếp tục hành trình tới Thái Bình Dương.

Bến cảng của Macau không bao giờ đủ sâu với tàu Varyag. Con tàu chiến mồ côi của một siêu cường cũ, với thiết kế kiểu nhảy cầu cho máy bay cất cánh, trên thực tế lại neo đậu ở thành phố cảng Đại Liên phía đông bắc Trung Quốc. Ở đó, nó dần dần được nâng cấp và trở thành tàu sân bay đầu tiên của một siêu cường tương lai. Giờ đây, thế giới lại có những lo lắng mới về con tàu cũ Varyag.

Vỏ bọc cho sứ mệnh cao cả

Ngày 10/8, con tàu được nâng cấp đã từ Đại Liên ra biển cho chuyến thử nghiệm đầu tiên. Vỏ bọc sòng bạc nổi che giấu thân phận con tàu bấy lâu đã không còn, tàu ra khơi với nhiệm vụ, sứ mệnh cao cả: phô diễn sức mạnh quân sự của Trung Quốc trên biển cả.

Việc hạ thủy Varyag diễn ra trong thời gian khá nhạy cảm. Lực lượng vũ trang của Trung Quốc đang tăng tốc hiện đại hóa - chi tiêu quân sự tăng trung bình hàng năm vào khoảng 15% kể từ năm 2000 - và sau cả thập niên dài “ve vãn” khu vực Đông và Đông Nam Á, Bắc Kinh bắt đầu có lập trường cứng rắn và gây hấn hơn trong vấn đề tranh chấp lãnh thổ.

Một số nhân tố dẫn đến cách tiếp cận cứng rắn này như khả năng các vùng biển tranh chấp chứa đựng nguồn dự trữ năng lượng giá trị; tham vọng thách thức ảnh hưởng khu vực của Mỹ; sự hiện diện lớn của chủ nghĩa dân tộc và nỗi sợ hãi sẽ yếu đi trước sự chuyển giao thế hệ lãnh đạo mới. “Đặc điểm thái độ của Trung Quốc dường như ngày càng quả quyết hơn”, Clive Schofield, giám đốc nghiên cứu Trung tâm nghiên cứu tài nguyên và an ninh đại dương của Australia nói.

Những nước láng giềng Trung Quốc đã phản ứng bằng những tuyên bố cứng rắn và thể hiện rõ thái độ của mình. Năm ngoái, Trung Quốc và Nhật Bản đã có cuộc tranh cãi kịch liệt về một quần đảo ở biển Hoa Đông thuộc sự quản lý của Nhật, nhưng do cả hai nước cùng tuyên bố chủ quyền, có tên gọi là Điếu Ngư (theo tiếng Trung Quốc) và Senkaku (tiếng Nhật). Khi Nhật bắt giữ thuyền trưởng tàu cá Trung Quốc ở gần quần đảo này, Trung Quốc đã phản ứng quyết liệt. Hai tuần sau đó, Nhật Bản thả vị thuyền trưởng và người này trở về trong sự tôn vinh như người hùng ở Trung Quốc.

Mùa hè năm nay, các tàu chiến Trung Quốc đã đi qua vùng biển quốc tế gần  Okinawa, và làm Tokyo bất an. Trong Sách Trắng Quốc phòng xuất bản sau đó, Nhật Bản cho rằng, chương trình hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc, việc gia tăng các hoạt động ở vùng biển châu Á và sự thiếu minh bạch “gây ra sự lo lắng trong khu vực và cộng đồng quốc tế”.

Lời cảnh báo

Tại Biển Đông, tranh chấp còn xảy ra nhiều hơn. Vùng biển 3 triệu km vuông với những hòn đảo nhỏ, và rất nhiều khu vực trong đó được tin là giàu trầm tích dầu và khí tự nhiên. Căng thẳng đã leo thang giữa Trung Quốc - nước đưa ra tuyên bố chủ quyền với hầu hết Biển Đông và một số quốc gia châu Á cũng có tuyên bố chủ quyền trong vùng biển. Philippines, quốc gia lên tiếng cáo buộc các tàu Trung Quốc quấy nhiễu tàu thăm dò dầu khí, tàu cá ít nhất sáu lần kể từ đầu năm trở lại đây, đã tuyên bố đổi tên vùng biển là Biển Tây Philippine và sẽ điều động tàu hải quân - tàu khu trục thời Thế chiến II Rajah Humabon, tuần tra trong vùng. Việt Nam thì cáo buộc các tàu Trung Quốc hai lần cắt cáp tàu thăm dò dầu khí vào mùa hè này, khi các tàu hoạt động trong phạm vi chủ quyền của Việt Nam.

Tranh chấp ở các vùng biển châu Á đã thu hút Mỹ. Năm ngoái, Ngoại trưởng Hillary Clinton đã tuyên bố, Mỹ có một “lợi ích quốc gia” trong tự do hàng hải ở Biển Đông và đề xuất rằng, Washington có thể trợ giúp giải quyết tranh chấp khi đóng vai trò trung gian hòa giải. Trung Quốc đã phản ứng đầy tức giận và khẳng định, Mỹ muốn “quốc tế hóa” vấn đề mà chỉ cần giải quyết giữa các nước láng giềng có liên quan. Một số nhà quan sát hình dung là Bắc Kinh sẽ có cách tiếp cận ít “đối kháng” hơn trong năm 2011, khi chứng kiến sự tham gia lớn hơn của Mỹ trong các vấn đề khu vực. “Điều đó đã không xảy ra”, Ian Storey, nhà nghiên cứu tại Học viện Nghiên cứu Đông Nam Á Singapore nói hồi tháng 6. "Trong thực tế, căng thẳng đã gia tăng trong hai hoặc ba tháng qua, có lẽ ở mức độ cao hơn những gì kể từ thời chấm dứt chiến tranh Lạnh”.

Ngày 20/7, Trung Quốc và ASEAN tuyên bố đạt được nhất trí về các hướng dẫn không mang tính ràng buộc về một thỏa thuận có thể giải quyết tranh chấp Biển Đông, tuy nhiên, các bất đồng vẫn khó thu hẹp. Thôi Thiên Khải, Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc đã cảnh báo, Mỹ có nguy cơ dính dáng vào một cuộc xung đột khu vực nếu không làm việc để kiềm chế các quốc gia khác. “Tôi tin là cá nhân mỗi nước thực sự đang chơi với lửa”, ông nói trước báo giới vào cuối tháng 6. “Tôi hy vọng rằng, Mỹ sẽ không bỏng tay với ngọn lửa ấy”.

Giữa tháng 7, tướng Trần Bỉnh Đức, Tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc (PLA), công khai phàn nàn với người đồng cấp Mỹ - đô đốc Mike Mullen, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân - về chi tiêu quân sự của Mỹ, về các hoạt động giám sát hàng hải ở gần biên giới của Trung Quốc và các cuộc tập trận chung với một số nước trong khu vực mà ông cho là “diễn ra trong thời gian không thích hợp”. Về phần mình, ông Mullen nói sau chuyến công du Trung Quốc 4 ngày rằng ông không bị thuyết phục bởi lập luận các tiến bộ quân sự Bắc Kinh hoàn toàn mang tính chất phòng thủ tự nhiên, và lo ngại xung đột ở Biển Đông “có thể leo thang, có thể dẫn tới hiểu lầm, và một sự cố hay sự hiểu lầm sẽ dẫn tới những rủi ro lớn hơn”.
{iarelatednews articleid='10490,10387,10302,10299,10207,10182,10048,9931,9820,9761,9784,9713,9686,9604,9571,9560,9513,9323'}
Hải Hà (tổng hợp)