Nguy cơ tăng nợ công
Trong buổi họp báo sáng 1/3, ông Hoàng Hải - Phó Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại, Bộ Tài chính cho biết, nợ bảo lãnh Chính phủ hiện đang ở mức 10,2% GDP, trong đó phần lớn là những khoản bảo lãnh dành cho doanh nghiệp nhà nước.
Những tập đoàn, tổng công ty nhà nước đang được Chính phủ cấp bảo lãnh nhiều nhất là: Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV), Tổng công ty Hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines)…
Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam đang được Chính phủ bảo lãnh khoản vay ngoại tệ. ảnh" Báo Đời sống và pháp luật. |
Đánh giá khoản nợ bảo lãnh này, TS.Nguyễn Trí Hiếu - Chuyên gia tài chính ngân hàng cho rằng, nguyên nhân dẫn đến việc Chính phủ phải bảo lãnh nợ vì tín nhiệm của doanh nghiệp Việt Nam thấp không thể đi vay nợ nước ngoài với số tiền lớn.
“Khi cho vay, các tổ chức tài chính nước ngoài nhìn vào nhiều yếu tố trong đó có khả năng tài chính, uy tín thị trường, khả năng thành công dự án đầu tư...
Xét các khía cạnh này thì doanh nghiệp Việt Nam thường không đủ tiêu chuẩn nên cần phải có bên thứ ba bảo lãnh là Chính phủ”, TS.Hiếu cho biết.
Tuy nhiên, TS.Nguyễn Trí Hiếu cũng cảnh báo, việc Chính phủ phải bảo lãnh các khoản vay ngoại tệ cho doanh nghiệp trong nước mang đến nhiều rủi ro.
Theo TS. Nguyễn Trí Hiếu nguy cơ nợ công quốc gia sẽ tăng nếu Chính phủ tiếp tục bảo lãnh nợ cho doanh nghiệp trong nước - ảnh H.Lực |
Vị chuyên gia này phân tích, khi Chính phủ bảo lãnh các khoản vay ngoại tệ cho doanh nghiệp nào đó đồng nghĩa với việc Chính phủ sẽ phải có trách nhiệm trả nợ.
“Nếu doanh nghiệp đi vay không trả được nợ thì Chính phủ từ nghĩa vụ bảo lãnh sẽ phải chịu nghĩa vụ trả nợ, vì thế việc Chính phủ bảo lãnh khoản vay cho doanh nghiệp sẽ mang đến nhiều rủi ro làm gia tăng khoản nợ công”, TS.Hiếu cho biết.
Tại buổi thảo luận về việc huy động, sử dụng vốn vay và nợ công giai đoạn 2016-2020 diễn ra tháng 11/2016, Bộ trưởng Bộ Tài chính - ông Đinh Tiến Dũng cho biết nợ công trong 5 năm qua tăng lên trung bình 18,4% và nhanh hơn gấp 3 lần so với tốc độ tăng trưởng kinh tế (5,91%).
Theo báo cáo của Bộ Tài chính, tính đến cuối năm 2016 nợ công của Việt Nam vào khoảng 64,13%GDP, nợ Chính phủ 53,62%GDP. Đóng góp đáng kể vào tỷ trọng nợ công là nợ do Chính phủ bảo lãnh, cuối năm 2016 vào khoảng 10,2% GDP.
TS.Nguyễn Trí Hiếu cho rằng, nếu Chính phủ không phải đứng ra lo bảo lãnh khoản vay chiếm khoảng 10,2% GDP cho doanh nghiệp như hiện nay thì nợ công Việt Nam đã ở ngưỡng thấp, đỡ lo ngại hơn.
“Nếu không siết vấn đề bảo lãnh khoản vay, nguy cơ nợ công bùng tăng luôn cận kề. Khi nợ công tăng và chúng ta không có khả năng trả nợ sẽ đẩy cả nền kinh tế đi vào khủng hoảng mà Hy Lạp là một ví dụ điển hình”, TS.Hiếu nhận định.
Bảo lãnh nợ, nhưng dự án thua lỗ
Trong danh sách doanh nghiệp nhà nước được Chính phủ bảo lãnh nợ đáng chú ý có nhà máy dự án thuộc diện thua lỗ không có khả năng trả nợ, điển hình như dự án Nhà máy Giấy Phương Nam.
Dự án nhà máy giấy Phương Nam - ảnh nguồn Thời báo Ngân hàng. |
Năm 2003, Công ty Đầu tư phát triển giao thông vận tải thuộc Tổng công ty Xây dựng công trình giao thông 6 (sau này là Công ty TNHH một thành viên Phát triển công nghiệp và Vận tải - Tracodi) xin đầu tư dự án Nhà máy Bột giấy Phương Nam có công suất 100 nghìn tấn bột giấy/năm, dự án có tổng vốn 1.487 tỷ đồng.
Theo đề nghị của Bộ Tài chính, dự án được Chính phủ bảo lãnh khoản vay 67 triệu Euro từ Ngân hàng Societe Generale (Pháp).
Nhà máy sử dụng công nghệ PR - C - APMP, thiết bị được chế tạo đồng bộ, mới 100%, hình thức triển khai là chìa khóa trao tay. Phương án khả thi của dự án tính toán thời gian hòa vốn gần 10 năm 8 tháng.
Đây là dự án lớn ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, được hy vọng là động lực thúc đẩy tăng trưởng trong khu vực.
Bức tranh đáng xấu hổ của nhiều doanh nghiệp nhà nước Làm rõ trách nhiệm cá nhân, tập thể gây ra thua lỗ, thất thoát tài sản nhà nước |
Đầu năm 2004, nhà máy được khởi công rình rang, lãnh đạo công ty phát biểu chắc nịch: “Nhà máy sẽ sản xuất ra loại bột giấy tốt nhất Việt Nam, tương đương chất lượng châu Âu”.
Tháng 11/2007, Tracodi quyết định điều chỉnh tổng mức vốn đầu tư lên 2.286 tỷ đồng, nhưng dự án vẫn rơi vào cảnh thiếu vốn.
Tháng 6/2009, theo Quyết định 731/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, dự án được chuyển đổi chủ đầu tư từ Tracodi sang Tổng công ty Giấy Việt Nam (Vinapaco), sau đó tiếp tục điều chỉnh tổng mức đầu tư lên hơn 3.400 tỷ đồng.
Thời điểm 2009, Bộ Tài chính được yêu cầu tiếp tục cho chủ đầu tư vay từ Quỹ Tích lũy trả nợ nước ngoài để thanh toán nợ gốc và lãi vay trong hai năm 2009-2010, tổng cộng 18,9 triệu Euro.
Khi nhà máy chạy thử có tải, nguyên liệu đay không phù hợp công nghệ sản xuất, cả hệ thống dây chuyền luôn trong tình trạng trục trặc. Khâu chế biến nguyên liệu đầu vào cho chu trình sản xuất là công đoạn chặt mảnh bị lỗi, không đạt yêu cầu.
Tháng 6/2012 dự án chạy thử nhưng không thành công do nguyên liệu đay của Long An không phù hợp với công nghệ sản xuất. Từ đó nhà máy rơi vào tình trạng đắp chiếu.
Cuối năm 2012, sau khi được Bộ Công thương thẩm định, Vinapaco đã nâng mức đầu tư lên 3.409 tỉ đồng. Trong đó, số vốn đã giải ngân là 2.948 tỉ đồng, bao gồm vốn vay trong nước 1.952 tỉ đồng và vốn vay nước ngoài là 968 tỉ đồng - do Bộ Tài chính bảo lãnh.
Đến ngày 12/5/2014, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý đề nghị của Bộ Công Thương về việc dừng đầu tư Nhà máy Bột giấy Phương Nam.
Trước thực trạng Chính phủ phải bảo lãnh nợ cho doanh nghiệp nhà nước có dự án thua lỗ, PGS.TS Bùi Thị An – Đại biểu Quốc hội Khóa XIII đặt ra vấn đề: Cần có đánh giá hiệu quả của khoản vay nợ nước ngoài của doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt khoản vay mà Chính phủ phải bảo lãnh.
PGS.Bùi Thị An đề nghị: Cần siết chặt vấn đề bảo lãnh nợ, cương quyết không bảo lãnh nợ cho các doanh nghiệp đã từng có dự án đầu tư thua lỗ - ảnh Ngọc Quang. |
PGS.An so sánh, trong khi doanh nghiệp tư nhân phải tự thu xếp về tài chính bằng việc vay ngân hàng, niêm yết sàn chứng khoán để hút nguồn vốn xã hội thì doanh nghiệp nhà nước dù được giao quản lý khối tài sản lớn, được ưu đãi về đất, về công nghệ, được bảo lãnh về vốn vay. Như vậy liệu có tạo ra sự cạnh tranh công bằng.
Điển hình như việc cùng là doanh nghiệp cạnh tranh trên thị trường hàng không nhưng trong khi Tổng công ty Hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines) được Chính phủ bảo lãnh khoản vay nợ nước ngoài để mua, thuê tàu bay thì Vietjet Air - một hãng hàng không tư nhân phải tự thu xếp tài chính với tổ chức nước ngoài, tổ chức niêm yết sàn chứng khoán để tăng nguồn vốn đảm bảo điều kiện phát triển.
Theo Đại biểu Bùi Thị An, cần rà soát lại các khoản vay của doanh nghiệp nước nhà nước để đảm bảo đầu tư hiệu quả.
“Vẫn biết rằng việc bảo lãnh nợ cho doanh nghiệp nhà nước nhằm mục đích tạo điều kiện doanh nghiệp có vốn đầu tư sản xuất kinh doanh. Nhưng như Thủ tướng đã nhấn mạnh phải có trách nhiệm với từng đồng tiền thuế của dân, vì vậy cần phải xem số vốn đó có được sử dụng hiệu quả, có mang lại lợi nhuận”, bà An đặt vấn đề.
Theo PGS.An, Chính phủ bảo lãnh nợ cho doanh nghiệp nhà nước do bên cạnh nhiệm vụ kinh doanh thì còn nhiệm vụ chính trị được giao. Tuy nhiên nhiệm vụ nào suy cho cùng cũng vì lợi ích đất nước, không thể lấy lý do vì phải làm nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ công ích để lý giải cho vấn đề thua lỗ.
Bà An đề nghị: "Cần siết chặt vấn đề bảo lãnh nợ, cương quyết không bảo lãnh nợ cho các doanh nghiệp đã từng có dự án đầu tư thua lỗ.
Trước khi quyết định bảo lãnh khoản nợ cho doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ mức độ hiệu quả của các dự án để tránh thua lỗ dẫn đến Chính phủ phải 'nai lưng' trả nợ".