Ngành Vi mạch bán dẫn đóng vai trò vô cùng quan trọng trong nền công nghiệp hiện đại khi không chỉ thúc đẩy các công nghệ tiên tiến mà còn có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế toàn cầu và an ninh quốc gia. Đối với Việt Nam, lĩnh vực này giúp nước ta chuyển mình từ một quốc gia chủ yếu gia công sang một trung tâm sản xuất và phát triển công nghệ cao. Đồng thời, gia tăng sự độc lập trong lĩnh vực công nghệ và giảm phụ thuộc vào các quốc gia khác, đóng góp vào sự phát triển của các ngành công nghiệp quan trọng như viễn thông, tự động hóa, và điện tử tiêu dùng.
Lợi thế và thách thức của Việt Nam hiện nay để phát triển ngành Vi mạch bán dẫn
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đức Minh – Phó hiệu trưởng Trường Điện – Điện tử, Đại học Bách khoa Hà Nội cho biết: Ngành công nghiệp bán dẫn đã và đang phát triển với tốc độ như vũ bão, là nền tảng công nghệ cốt lõi của nhiều quốc gia phát triển như Hoa Kỳ, Châu Âu, Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc,..
Việc phát triển ngành bán dẫn không chỉ giúp các quốc gia duy trì sự cạnh tranh về công nghệ, mà còn đảm bảo an ninh quốc gia và giảm thiểu sự phụ thuộc vào các nguồn cung bên ngoài.
Ghi nhận từ thực tế, thầy Minh cho hay Việt Nam đang nổi lên như một điểm đến hấp dẫn cho sự chuyển dịch chuỗi cung ứng bán dẫn, với nhiều tập đoàn lớn như Intel, Samsung, Amkor đang xem xét mở rộng đầu tư hoặc đầu tư mới vào các nhà máy đóng gói và kiểm thử chip. Hay các công ty lớn trong ngành công nghệ như Qorvo, Synopsys, Infineon, Marvel, Toshiba và nhiều doanh nghiệp thiết kế khác đã mở rộng văn phòng tại các thành phố lớn như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Đà Nẵng. Chưa kể có nhiều doanh nghiệp khác cũng đang tìm hiểu cơ hội đầu tư vào nước ta, điều này mở ra cơ hội lớn cho ngành vi mạch bán dẫn khi nhu cầu về nguồn nhân lực ngày một tăng cao.
“Với dân số trẻ và nguồn lực con người phong phú, Việt Nam đang sở hữu một điểm mạnh lớn về cả số lượng và tiềm năng chất lượng. Hàng năm, nước ta có khoảng 1 triệu học sinh tốt nghiệp Trung học phổ thông, trong đó có 500.000 sinh viên nhập học các cơ sở đào tạo đại học. Đây chính là nguồn tiềm năng vô cùng quan trọng cho việc đào tạo các ngành STEM nói chung, và ngành Vi mạch bán dẫn nói riêng.
Với sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp bán dẫn, nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực này sẽ ngày càng gia tăng, và Việt Nam có thể tận dụng nguồn lực học sinh, sinh viên dồi dào để phát triển và cung cấp nhân lực cho ngành công nghiệp này, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế số trong tương lai”, thầy Minh nêu quan điểm.
Bên cạnh những điều kiện thuận lợi đó, Phó hiệu trưởng Trường Điện – Điện tử, Đại học Bách khoa Hà Nội cũng chỉ ra một số thách thức, khó khăn mà nước ta phải đối mặt trong quá trình đào tạo nhân lực ngành học này.
Thứ nhất là nhu cầu nhân lực trong ngành Vi mạch bán dẫn đòi hỏi chất lượng cao và sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ khiến cho việc dự đoán nhu cầu về nhân lực trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Điều này đòi hỏi chương trình đào tạo phải linh hoạt và cập nhật liên tục để theo kịp xu hướng phát triển của ngành.
Thứ hai là vấn đề về kinh phí đào tạo nhân lực. Việc xây dựng cơ sở vật chất, trang bị các phòng thí nghiệm thực hành hiện đại, cùng với yêu cầu về giảng viên có chuyên môn sâu và kinh nghiệm thực tế sẽ cần một khoản đầu tư đáng kể. Điều này đặt ra thách thức về ngân sách và tài chính cho các cơ sở giáo dục trong việc đầu tư để đảm bảo chất lượng đào tạo ngành học.
Cuối cùng là thực trạng học sinh chưa thực sự hiểu đúng về ngành nghề và thường lựa chọn theo xu hướng thay vì dựa trên khả năng, sở thích cá nhân. Việc này có thể dẫn đến nguy cơ thiếu nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực này khi những người học không thực sự đam mê hoặc phù hợp với ngành học sẽ bỏ dở giữa chừng, hoặc không đảm bảo được chất lượng đào tạo như kỳ vọng đã đặt ra.

Cùng bàn về vấn đề này, Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Tuyết Phương - Trưởng Phòng Đào tạo sau đại học, Trưởng khoa Khoa học liên ngành Trường Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng: Việt Nam có nền tảng tốt về lĩnh vực khoa học tự nhiên, đặc biệt trong các ngành khoa học cơ bản như Toán học, Vật lý, Hóa học và Sinh học. Các trường đại học lớn như Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Bách Khoa và nhiều cơ sở giáo dục khác đã và đang đào tạo một lực lượng lao động có trình độ cao trong các lĩnh vực này. Các chương trình đào tạo về khoa học tự nhiên của Việt Nam cũng đã có những bước phát triển đáng kể, cung cấp nền tảng vững chắc cho các ngành công nghiệp công nghệ cao, bao gồm ngành bán dẫn và vi mạch.
Bên cạnh những điều kiện thuận lợi đó, cô Phương cũng chỉ ra một số khó khăn, thách thức mà Việt Nam đang phải đối mặt trong công tác đào tạo nhân lực cho ngành Vi mạch bán dẫn.
Thách thức lớn nhất là việc đầu tư cơ sở vật chất cho việc đào tạo nhân lực của ngành. Các ngành công nghệ cao như vi mạch bán dẫn đòi hỏi các phòng thí nghiệm hiện đại, thiết bị công nghệ tiên tiến và các công cụ nghiên cứu chuyên biệt. Điều này đòi hỏi nguồn vốn lớn từ cả nhà nước và các doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc đầu tư vào cơ sở vật chất này hiện vẫn chưa đủ để đáp ứng yêu cầu của ngành, khiến việc đào tạo không thể đạt đến mức độ chất lượng cao như mong muốn.
Thứ hai là sự thiếu kết nối chặt chẽ giữa các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp. Mặc dù có rất nhiều trường đại học và tổ chức giáo dục có khả năng đào tạo chất lượng cao nhưng khi ra trường, sinh viên lại gặp khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm phù hợp với ngành học. Do vậy doanh nghiệp cần phải chủ động mở cửa, tạo điều kiện cho sinh viên thực tập, học hỏi và áp dụng kiến thức vào thực tế. Đồng thời, cần có một cơ chế liên kết mạnh mẽ giữa các trường đào tạo và doanh nghiệp để đảm bảo rằng nguồn nhân lực được đào tạo sẽ đáp ứng đúng nhu cầu của thị trường.
Cuối cùng, để ngành công nghiệp bán dẫn phát triển nhanh và bền vững cần có sự đồng hành của các doanh nghiệp trong việc đầu tư vào đào tạo nhân lực. Doanh nghiệp không chỉ cần tận dụng nguồn nhân lực chất lượng cao mà còn phải tham gia vào quá trình đào tạo, từ việc cung cấp học bổng, thực tập, đến việc đồng hành cùng các cơ sở giáo dục trong việc phát triển chương trình đào tạo. Sự đầu tư này sẽ giúp tạo ra một vòng tròn khép kín giữa đào tạo và việc làm, thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của ngành bán dẫn.

Lựa chọn đối tượng tuyển sinh thế nào để phù hợp với đặc thù ngành học?
Trước yêu cầu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng dự thảo Chuẩn chương trình đào tạo trình độ đại học, thạc sĩ về vi mạch bán dẫn, tạo nền tảng cho việc mở ngành tại các cơ sở giáo dục đại học.
Trong đó, nội dung nhận được nhiều sự quan tâm và bàn luận chính là yêu cầu về chuẩn đầu vào của ngành học. Thí sinh muốn ứng tuyển vào các ngành về vi mạch bán dẫn thì phải đảm bảo điểm các môn Toán học, Vật lý, Hóa học đạt 80% trở lên, thông thường là 8/10 điểm.
Theo Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Tuyết Phương, các kiến thức cơ bản về Toán học, Vật lý và Hóa học là không thể thiếu trong việc đào tạo nhân lực cho ngành vi mạch bán dẫn. Bởi ngành học này không chỉ liên quan đến công nghệ điện tử mà còn bao gồm rất nhiều yếu tố về vật lý và hóa học. Do đó, nếu thiếu nền tảng vững chắc trong các môn học như Vật lý, Hóa học, sinh viên sẽ gặp khó khăn trong việc tiếp thu các kiến thức chuyên sâu về bán dẫn.
Khi vào học ngành này, sinh viên sẽ cần tiếp thu rất nhiều kiến thức mới và tiên tiến từ các nguồn tài liệu quốc tế. Do đó, để có thể tiếp thu và áp dụng hiệu quả những kiến thức mới này, sinh viên không chỉ cần có nền tảng khoa học tự nhiên vững chắc, mà còn cần đạt được một mức độ nhất định về ngoại ngữ. Việc nắm vững tiếng Anh, đặc biệt là các thuật ngữ chuyên ngành trong công nghệ bán dẫn sẽ giúp sinh viên tiếp cận được các tài liệu nghiên cứu, bài báo khoa học và các công trình mới từ các chuyên gia hàng đầu trên thế giới. Điều này sẽ giúp sinh viên không chỉ học hỏi và áp dụng kiến thức vào thực tế mà còn có thể tham gia vào các dự án nghiên cứu và phát triển công nghệ bán dẫn ở mức độ quốc tế.
Để đảm bảo chất lượng đào tạo nhân lực cho ngành vi mạch bán dẫn, Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Tuyết Phương nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại để sinh viên có cơ hội tiếp cận với thực tế. Theo đó, các thiết bị công nghệ tiên tiến sẽ giúp sinh viên không chỉ học lý thuyết mà còn thực hành và phát triển kỹ năng giải quyết vấn đề trong ngành.
Vì ngành học phát triển với tốc độ rất nhanh nên đội ngũ giảng viên cần phải không ngừng nâng cao trình độ, cập nhật những xu hướng công nghệ mới nhất. Theo quan điểm của cô Phương, giảng viên lĩnh vực bán dẫn không chỉ có kiến thức chuyên môn vững vàng mà còn phải có khả năng ứng dụng các nghiên cứu, công nghệ tiên tiến vào giảng dạy. Việc này sẽ giúp sinh viên tiếp cận được các xu hướng mới và hiểu được các công nghệ mà doanh nghiệp đang áp dụng.
Đồng thời, chương trình đào tạo ngành học nên được xây dựng với sự tham gia của các doanh nghiệp trong ngành để đảm bảo rằng nội dung đào tạo sát với yêu cầu thực tế. Các doanh nghiệp có thể cung cấp thông tin về các kỹ năng và công nghệ mà họ cần, cũng có thể tham gia vào quá trình đào tạo, cung cấp cơ hội thực tập đến việc giúp xây dựng các chương trình đào tạo linh hoạt, phù hợp với yêu cầu thay đổi nhanh chóng của ngành.
Ngoài ra, Trưởng khoa Khoa học liên ngành Trường Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh cũng cho rằng để mang lại giá trị thặng dư cao hơn cho ngành Vi mạch bán dẫn, việc đào tạo ở các bậc học cao hơn như thạc sĩ và tiến sĩ là rất quan trọng. Cụ thể, các chương trình đào tạo sau đại học giúp sinh viên đi sâu vào nghiên cứu và phát triển, sáng tạo ra các công nghệ mới, có khả năng giải quyết các vấn đề phức tạp và đóng góp trực tiếp vào sự đổi mới và phát triển của ngành.
“Việc đào tạo những nhân lực chất lượng cao, có trình độ chuyên môn sâu và kỹ năng thực tiễn sẽ là yếu tố quyết định sự thành công của ngành vi mạch bán dẫn. Điều này không chỉ giúp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh trong ngành công nghệ cao mà còn thúc đẩy sự phát triển kinh tế bền vững trong kỷ nguyên số”, cô Phương bày tỏ.

Trong khi đó, theo Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đức Minh, việc yêu cầu thí sinh đạt từ 8 điểm trở lên đối với các môn Toán, Lý, Hóa là một đề xuất đã cân nhắc nhiều yếu tố, vừa đảm bảo số lượng sinh viên đầu vào, vừa duy trì chất lượng đầu ra.
Thực tế đào tạo cho thấy thí sinh có điểm đầu vào thấp thường gặp nhiều khó khăn trong việc theo kịp chương trình đào tạo, cũng như không đáp ứng các yêu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp. Trong khi đó ngành vi mạch bán dẫn đòi hỏi kiến thức và kỹ năng chuyên sâu, vậy nên việc đặt tiêu chí đầu vào cao là việc làm cần thiết để đảm bảo sinh viên có đủ nền tảng kiến thức và tư duy theo học ngành này.
“Nếu chúng ta áp dụng được tiêu chí này trong công tác tuyển sinh thì hoàn toàn có thể kỳ vọng vào những kết quả tích cực trong việc đào tạo nhân lực cho ngành công nghiệp bán dẫn ở tương lai. Bởi, việc nâng cao chất lượng đào tạo sẽ giúp sinh viên ra trường đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của các doanh nghiệp trong ngành bán dẫn. Điều này không chỉ giúp các doanh nghiệp có được nguồn nhân lực chất lượng cao mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành công nghiệp bán dẫn tại Việt Nam.
Với đặc thù chuyên sâu của ngành học, việc tuyển những thí sinh có học lực tốt ngay từ ban đầu sẽ giảm tỷ lệ bỏ học giữa chừng do không theo kịp chương trình đào tạo. Mặt khác, góp phần nâng cao hình ảnh của ngành học, qua đó thu hút các học sinh giỏi và đam mê khoa học công nghệ theo đuổi lĩnh vực này”, thầy Minh chia sẻ.
Bên cạnh đó, Phó hiệu trưởng Trường Điện – Điện tử, Đại học Bách khoa Hà Nội cũng cho rằng vì vi mạch bán dẫn là một lĩnh vực cạnh tranh cao nên cần đòi hỏi tiêu chuẩn khắt khe cả ở đầu vào và đầu ra. Theo đó, không chỉ ưu tiên tuyển chọn những sinh viên có năng lực tốt ngay từ đầu mà đồng thời phải đảm bảo chất lượng đào tạo ở các cơ sở giáo dục đại học để người học có thể đáp ứng được yêu cầu thực tế của ngành.
Đặc biệt, Việt Nam không nên rơi vào “bẫy số lượng” khi đào tạo quá nhiều nhưng sinh viên tốt nghiệp lại không đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp. Để đảm bảo không bỏ sót nhân tài, có thể xem xét thêm các chính sách linh hoạt như xét tuyển bổ sung dựa trên bài kiểm tra tư duy hoặc các chương trình bồi dưỡng kiến thức nền trước khi vào học chính thức.