EMagazine

Để đạt 30% CSGDĐH tư thục, chính sách hỗ trợ của Nhà nước đóng vai trò then chốt

Để đạt 30% CSGDĐH tư thục, chính sách hỗ trợ của Nhà nước đóng vai trò then chốt

23/04/2025 06:32
Mộc Trà
0:00 / 0:00
0:00

GDVN-Theo TS Trần Việt Anh, nên xây dựng hệ thống xếp hạng/phân tầng các CSGDĐH để các trường tư thục có mục tiêu phấn đấu và người học có thông tin minh bạch lựa chọn.

Theo định hướng phát triển và phân bố mạng lưới đến năm 2030, các cơ sở giáo dục đại học tư thục và tư thục không vì lợi nhuận chiếm khoảng 30% tổng quy mô đào tạo toàn quốc, giữ vai trò quan trọng trong đa dạng hóa dịch vụ giáo dục đại học, đáp ứng linh hoạt nhu cầu của người học và của thị trường lao động.

Đây là mục tiêu được đặt ra trong Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và sư phạm thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (theo Quyết định số 452/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ).

Tuy nhiên, để hướng đến mục tiêu trên, hệ thống cơ sở giáo dục đại học tại Việt Nam hiện cũng đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức.

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Trần Việt Anh - Phó Chủ tịch Hội đồng trường, Phó Hiệu trưởng phụ trách Trường Đại học Hùng Vương Thành phố Hồ Chí Minh đã có những chia sẻ về thuận lợi, khó khăn của các cơ sở giáo dục đại học tư thục (nói chung) cũng như của nhà trường (nói riêng).

Phóng viên: Thưa Tiến sĩ Trần Việt Anh, để thực hiện mục tiêu trên, thầy đánh giá, các cơ sở giáo dục tư thục sẽ đứng trước những thuận lợi, khó khăn gì?

Tiến sĩ Trần Việt Anh: Mục tiêu nâng tỉ lệ các cơ sở giáo dục đại học tư thục lên 30%, theo tôi, không chỉ là con số tăng trưởng, mà còn là một chỉ báo cho sự chuyển mình về chất lượng và đa dạng hóa trong hệ thống đào tạo. Định hướng này giúp mở rộng cơ hội học tập cho thế hệ trẻ, đồng thời tăng tính cạnh tranh và nâng cao chất lượng của hệ thống giáo dục nói chung.

Thực tế, các cơ sở tư thục vốn có lợi thế về tính linh hoạt trong quản lý và khả năng đổi mới nhanh chóng, điều này giúp nhà trường dễ dàng điều chỉnh chương trình học theo yêu cầu của thị trường lao động hiện đại. Nếu chỉ nhìn vào lợi thế đó, thì mục tiêu 30% là bước tiến hợp lý, song, từ một góc độ sâu xa hơn, sự chuyển đổi này còn phụ thuộc vào khả năng giải quyết những hạn chế hiện hữu như nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất chưa đạt chuẩn và những rào cản pháp lý, hành chính còn tồn tại. Nên đây sẽ là một thách thức rất lớn.

Để đạt được mục tiêu này, không chỉ cần đẩy mạnh đổi mới, mà còn phải có sự cải cách đồng bộ từ các bộ phận liên quan, đảm bảo mỗi cơ sở tư thục đều có nền tảng vững chắc để phát triển bền vững.

Mở rộng khối đại học ngoài công lập đồng nghĩa với thêm nhiều cơ hội vào đại học cho người học. Tổng quy mô sinh viên đại học dự kiến tăng 50% trong giai đoạn 2022-2030 (đạt trên 3 triệu người học), mà phần tăng thêm này phần lớn sẽ do khối tư thục đảm nhiệm.

Như vậy, nhiều học sinh tốt nghiệp phổ thông sẽ không còn bị giới hạn bởi số chỗ ở các trường công lập như trước đây.

Rủi ro trường quốc tế đóng cửa (4).jpg

Tuy nhiên, cơ hội tiếp cận này sẽ phụ thuộc lớn vào điều kiện tài chính của người học. Do học phí trường tư thục thường cao hơn đáng kể so với trường công, vì vậy, sinh viên nghèo hoặc ở vùng khó khăn có thể không được hưởng lợi từ sự mở rộng của khối tư nếu thiếu hỗ trợ.

Mặc dù đã có chính sách cho vay tín dụng sinh viên không phân biệt công tư, song, thực tế mức vay còn thấp và thủ tục hạn chế, chưa tạo được sự bình đẳng cho người học trường tư. Nếu không có các gói học bổng, trợ giúp tài chính đủ mạnh, thì khoảng cách tiếp cận giữa các nhóm thu nhập có thể gia tăng khi giáo dục đại học ngày càng xã hội hóa.

Do đó, để mục tiêu 30% mang lại lợi ích toàn diện, cần song song triển khai các chương trình tín dụng, học bổng cho sinh viên trường tư có hoàn cảnh khó khăn, nhằm đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục.

Việc phát triển các trường tư thục cũng đặt ra vấn đề công bằng giữa các cơ sở giáo dục. Hiện nay, trường ngoài công lập chịu nhiều thiệt thòi vì không được ngân sách hỗ trợ, phải tự trang trải mọi chi phí. Trong khi đó, nhiều trường công lập lâu năm đã tích lũy được quỹ đất, cơ sở vật chất và đội ngũ mạnh nhờ nguồn lực Nhà nước.

Nếu không có chính sách bù đắp, khối tư thục sẽ tiếp tục gặp bất lợi, ảnh hưởng đến mặt bằng chất lượng chung và khả năng đóng góp cho xã hội. Hơn nữa, phần lớn trường tư tập trung ở các thành phố lớn, dẫn đến bất bình đẳng vùng miền về cơ hội học đại học. Các tỉnh vùng sâu, vùng xa vẫn phải trông chờ vào trường công lập do ít nhà đầu tư mặn mà mở trường tư ở những nơi này.

Vì vậy, Nhà nước vẫn cần hiện diện để bảo đảm cơ hội giáo dục cho mọi vùng, thông qua duy trì và phát triển mạng lưới trường công ở địa bàn khó khăn.

Tóm lại, mục tiêu 30% tư thục sẽ thúc đẩy xã hội hóa giáo dục, nhưng khía cạnh công bằng đòi hỏi Nhà nước có điều tiết thích hợp, tránh để giáo dục trở thành dịch vụ xa xỉ với người thu nhập thấp hoặc cư dân nông thôn.

Phóng viên: Hiện nay, các cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập đang chiếm tỉ lệ hơn 28% trong hệ thống giáo dục. Vậy, cần có lộ trình như thế nào để thực hiện theo đúng định hướng trên, thưa thầy?

Tiến sĩ Trần Việt Anh: Để chuyển đổi và đạt được mục tiêu 30%, tôi cho rằng, cần có một lộ trình phát triển toàn diện, bắt đầu từ việc nâng cao chất lượng nội bộ các cơ sở hiện có - như chúng tôi đã triển khai tại Trường Đại học Hùng Vương Thành phố Hồ Chí Minh - bao gồm cải thiện cơ sở vật chất, nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên và tối ưu hóa các quy trình quản lý.

Trước tiên, cần tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc thành lập và vận hành các trường tư thục. Quy trình cấp phép cần được đơn giản hóa nhưng vẫn đảm bảo yêu cầu kiểm định chất lượng, giúp các nhà đầu tư có thể yên tâm phát triển trường. Bên cạnh đó, chính sách về đất đai, tài chính và thuế cần có sự hỗ trợ nhất định để giảm áp lực cho các cơ sở mới thành lập.

Ngoài ra, để hệ thống giáo dục tư thục thực sự phát triển, cần có chính sách khuyến khích hợp tác giữa các trường với doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và mở rộng cơ hội việc làm cho sinh viên. Việc liên kết với các tổ chức giáo dục quốc tế cũng sẽ giúp các trường tư thục nâng cao chất lượng giảng dạy, thu hút sinh viên trong nước và quốc tế.

Quan trọng nhất, phải đảm bảo một hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục tại các trường tư thục chặt chẽ, tạo niềm tin cho người học nhưng cũng hết sức linh hoạt, giúp các trường có cơ hội phát triển bền vững mà không bị bó buộc bởi những quy định quá cứng nhắc.

Nếu thực hiện đồng bộ các giải pháp trên, việc nâng tỉ lệ cơ sở giáo dục đại học tư thục lên 30% không chỉ khả thi mà còn tạo động lực lớn cho sự phát triển chung của giáo dục đại học Việt Nam.

Việc tạo thêm nhiều điều kiện thuận lợi cho việc mở trường tư thục là cần thiết, nhưng đồng thời phải đi kèm với một kế hoạch tái cấu trúc hệ thống các trường tư thục một cách bài bản và chặt chẽ. Nếu chúng ta chỉ đơn thuần mở rộng mà không có cơ chế kiểm soát và đánh giá chất lượng giáo dục, thì dễ dẫn đến việc xuất hiện các cơ sở không đáp ứng được tiêu chuẩn đào tạo, gây ảnh hưởng tiêu cực đến uy tín của toàn hệ thống.

Vì vậy, ngoài việc đơn giản hóa thủ tục hành chính, cần xây dựng một bộ khung pháp lý rõ ràng, trong đó các tiêu chí về chất lượng đào tạo, cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên… được định hướng và giám sát chặt chẽ. Điều này không chỉ tạo động lực cho các nhà đầu tư mà còn đảm bảo rằng các cơ sở mới thành lập sẽ góp phần nâng cao chất lượng chung của giáo dục đại học.

Rủi ro trường quốc tế đóng cửa.jpg

Phóng viên: Song song với mục tiêu phát triển, các cơ sở giáo dục đại học tư thục cũng đồng thời phải đáp ứng chuẩn cơ sở giáo dục đại học tại Thông tư số 01/2024/TT-BGDĐT. Theo thầy, có những khó khăn nào cần được tháo gỡ?

Tiến sĩ Trần Việt Anh: Sự gia tăng nhanh về số lượng trường và sinh viên ngoài công lập cũng dấy lên lo ngại về kiểm soát chất lượng. Nếu chạy theo quy mô mà lỏng lẻo chất lượng, hệ quả sẽ là sinh viên ra trường không đáp ứng yêu cầu, làm giảm uy tín của cả hệ thống giáo dục.

Nhận thức rõ điều này, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đẩy mạnh công tác kiểm định chất lượng trên toàn hệ thống.

Tính đến cuối năm 2024, đã có 208 cơ sở giáo dục đại học (86,3% các trường đại học ngoài công lập) được đánh giá đạt chuẩn kiểm định trong và ngoài nước.

Quy hoạch cũng nêu rõ, sẽ chấm dứt hoạt động trước năm 2028 và giải thể trước năm 2030 đối với cơ sở giáo dục đại học, phân hiệu của cơ sở giáo dục đại học không đạt chuẩn hoặc không hoàn thành xác lập vị trí pháp lý theo quy định của pháp luật.

Điều này cho thấy quyết tâm sàng lọc các cơ sở yếu kém, đảm bảo chỉ những trường đủ năng lực mới tiếp tục phát triển.

Về phía các trường, nhiều cơ sở giáo dục đại học tư thục đã và đang nỗ lực nâng cao chất lượng đào tạo để xóa dần định kiến xã hội, thông qua việc mời giảng viên giỏi, hợp tác với doanh nghiệp, cập nhật chương trình theo nhu cầu thực tiễn và chú trọng kỹ năng việc làm cho sinh viên.

Rủi ro trường quốc tế đóng cửa (1).jpg

Thực tế cũng bắt đầu xuất hiện những trường tư thục có thứ hạng, uy tín cao (ví dụ Đại học Duy Tân, Đại học Phenikaa… lọt bảng xếp hạng quốc tế), phần nào chứng minh chất lượng không thua kém khối công lập.

Trong tương lai, nếu đạt tỉ lệ 30% và đi kèm với các biện pháp đảm bảo chất lượng nghiêm ngặt, hệ thống giáo dục đại học tư thục sẽ năng động và hiệu quả hơn, mang lại nguồn nhân lực chất lượng cho xã hội mà vẫn giữ được niềm tin của người học và nhà tuyển dụng.

Tuy nhiên, khó khăn lớn vẫn nằm ở việc đầu tư cải thiện cơ sở vật chất và phát triển đội ngũ giảng viên chất lượng. Việc mở rộng quy mô đòi hỏi các trường ngoài công lập phải đầu tư lớn vào khuôn viên, phòng học, ký túc xá, trang thiết bị,…

Nhiều trường tư hiện còn hạn chế về diện tích đất và cơ sở vật chất do phải tự lực hoàn toàn về tài chính và chưa tiếp cận được các ưu đãi của Nhà nước. Bên cạnh đó, nguồn nhân lực giảng dạy cần phát triển tương ứng: Quy hoạch đặt mục tiêu đến 2030, toàn hệ thống có 110.000 giảng viên (tăng 5% mỗi năm), trong đó ít nhất 40% trình độ tiến sĩ. Điều này đòi hỏi các trường tư thục phải nỗ lực thu hút và đào tạo giảng viên có trình độ cao - một nhiệm vụ không dễ khi khu vực công lập vẫn hấp dẫn nhiều nhân lực chất lượng.

Nhìn chung, nếu không có đột phá về chính sách hỗ trợ và quản trị, mục tiêu 30% rất khó khả thi.

Phóng viên: Ngoài ra, thầy có thêm kiến nghị/đề xuất gì để phát triển hệ thống tư thục trong thời gian tới, phát triển mạng lưới như mục tiêu đã đề ra?

Tiến sĩ Trần Việt Anh: Để hiện thực hóa mục tiêu các trường ngoài công lập chiếm xấp xỉ 30% quy mô vào 2030, chính sách hỗ trợ của Nhà nước đóng vai trò then chốt:

Thứ nhất, ưu đãi thuế và đất đai: Cần tiếp tục và tăng cường các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế sử dụng đất đối với nhà đầu tư giáo dục. Nhiều cơ chế đã được ban hành (Nghị định số 69/2008/NĐ-CP, Nghị định số 59/2014/NĐ-CP…) cho phép giao đất, miễn giảm thuế cho trường ngoài công lập, nhưng việc triển khai chưa đồng bộ khiến đa số trường chưa được hưởng ưu đãi đất đai như kỳ vọng.

Do đó, cần có hướng dẫn rõ ràng hơn ở cấp bộ/ngành và địa phương để các trường đủ điều kiện dễ dàng tiếp cận chính sách này.

Về thuế, có thể xem xét miễn thuế nhập khẩu đối với trang thiết bị dạy học, nghiên cứu của các trường tư thục; cho phép khấu trừ thuế với phần lợi nhuận tái đầu tư vào giáo dục; khuyến khích tài trợ, hiến tặng cho giáo dục bằng cách ưu đãi thuế cho doanh nghiệp hoặc cá nhân tài trợ. Những biện pháp này nhằm giảm gánh nặng chi phí đầu tư ban đầu, tạo động lực cho nhà đầu tư mạnh dạn phát triển trường đại học ngoài công lập.

Thứ hai, hỗ trợ tín dụng và vốn vay: Một “rào cản” lớn với khối tư thục là thiếu vốn đầu tư dài hạn. Vì vậy, cần có chính sách vay vốn ưu đãi dành riêng cho giáo dục đại học tư thục. Chính phủ có thể thành lập quỹ tín dụng giáo dục hoặc hợp tác với ngân hàng chính sách để cho các trường vay lãi suất thấp, thời hạn dài nhằm xây dựng cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm, ký túc xá…

Hiện nay, đa số trường tư rất khó tiếp cận vốn vay ưu đãi do không thỏa mãn các điều kiện ràng buộc theo quy định cũ.

Việc “nới lỏng” hoặc thiết kế điều kiện cho phù hợp thực tiễn là cần thiết. Song song với đó, chính sách tín dụng sinh viên cũng nên được mở rộng: nâng mức vay tối đa, giảm lãi suất và thủ tục đơn giản hơn cho sinh viên nghèo học trường tư. Một đề xuất của Bộ Giáo dục và Đào tạo là cho phép sinh viên ngành STEM vay đến 5 triệu đồng/tháng - những ý tưởng như vậy cần được xem xét áp dụng sớm để hỗ trợ người học và gián tiếp giúp các trường ngoài công lập tuyển sinh thuận lợi hơn.

Rủi ro trường quốc tế đóng cửa (3).jpg

Thứ ba, khung pháp lý minh bạch và thông thoáng: Việc thành lập và vận hành trường đại học tư thục cần một khung pháp lý ổn định, rõ ràng để thu hút nhà đầu tư dài hạn. Nhà nước cần hoàn thiện các quy định về quyền sở hữu, chuyển đổi loại hình, đặc biệt là khuyến khích mô hình không vì lợi nhuận.

Hiện đã có quy định ưu tiên cho trường không vì lợi nhuận (về đất đai, thuế…), nhưng cần minh bạch tiêu chí công nhận và giám sát mô hình này để tạo niềm tin cho nhà đầu tư bỏ vốn làm giáo dục lâu dài.

Bên cạnh đó, cần đơn giản hóa thủ tục hành chính trong phê duyệt mở trường, mở ngành mới, tuyển sinh… để các trường ngoài công lập chủ động phát triển theo nhu cầu xã hội.

Một điểm quan trọng là phải thống nhất thực thi chính sách xã hội hóa ở các địa phương. Nhiều ý kiến đề xuất “cởi trói” cho chính quyền tỉnh/thành: cho phép họ chủ động mời gọi, “trải thảm đỏ” cho dự án giáo dục thay vì chờ nhà đầu tư tự tìm đến. Khi địa phương xem phát triển đại học (kể cả tư thục) là động lực kinh tế - xã hội và tích cực hỗ trợ, mục tiêu 30% sẽ có nền tảng thuận lợi hơn để đạt được.

Thứ tư, đảm bảo kiểm định chất lượng và minh bạch thông tin: Song hành với mở rộng quy mô, Nhà nước phải tăng cường giám sát chất lượng các cơ sở giáo dục. Cần duy trì việc kiểm định định kỳ và công khai kết quả để xã hội biết trường nào đạt chuẩn, trường nào yếu kém. Đặc biệt, Quy hoạch đã đề cập việc mạnh tay đóng cửa những trường không đạt chuẩn vào 2028-2030, đây là biện pháp răn đe cần thiết để tránh tình trạng “trăm hoa đua nở” nhưng không đảm bảo chất lượng.

Ngoài ra, nên xây dựng hệ thống xếp hạng hoặc phân tầng các trường đại học Việt Nam (dựa trên tiêu chí khách quan về chất lượng đào tạo, nghiên cứu, việc làm của sinh viên) để các trường tư thục có mục tiêu phấn đấu và người học có thông tin minh bạch để lựa chọn. Về phía các trường, cần khuyến khích công khai chi phí và học phí rõ ràng cho từng khóa học, tránh tình trạng thiếu minh bạch gây bất lợi cho sinh viên. Những nỗ lực này sẽ củng cố niềm tin của xã hội vào các trường đại học ngoài công lập, tạo nền tảng vững chắc để khối này phát triển đạt mục tiêu đề ra.

Thứ năm, ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số vào quản trị và giảng dạy là yếu tố không thể thiếu. Công nghệ không chỉ giúp tối ưu hóa nguồn lực, cải thiện hiệu quả quản lý, mà còn tạo ra các hình thức đào tạo linh hoạt, đáp ứng nhanh với sự biến đổi của thị trường lao động hiện đại.

Thứ sáu, việc đầu tư vào đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giảng viên là điều cần thiết để nâng cao trình độ chuyên môn và đảm bảo chất lượng đào tạo, từ đó xây dựng uy tín cho hệ thống giáo dục tư thục.

Nếu những giải pháp trên được thực hiện một cách đồng bộ và hiệu quả, không chỉ mở rộng được mạng lưới các trường tư thục, mà còn góp phần vào sự phát triển bền vững và chất lượng cao của giáo dục đại học tại Việt Nam.

Phóng viên: Trân trọng cảm ơn những chia sẻ của thầy!

Mộc Trà