Theo Vietnam Airlines, nguyên nhân là do trong năm 2009, nền kinh tế thế giới suy thoái, kéo theo nhu cầu đi lại giảm rõ rệt, đặc biệt là thị trường quốc tế. Thêm vào đó, năm 2009, Vietnam Airlines không còn khoản doanh thu từ phụ thu nhiên liệu nội địa (năm 2008 khoảng 200 tỷ đồng).
Tổng doanh thu năm 2013 của tổng công ty đạt đạt 68,9 nghìn tỷ đồng, tương đương 3,3 tỷ USD – nhỉnh hơn một chút so với doanh thu của doanh nghiệp lớn nhất trên sàn chứng khoán là PV GAS (65,4 nghìn tỷ).
Doanh thu và lợi nhuận hợp nhất của Vietnam Airlines. |
Con số trên là kết quả hợp nhất của công ty mẹ Vietnam Airlines và các công ty con như Jetstar Pacific Airlines (JPA), Cambodian Angkor Air, Xăng dầu hàng không, Tân Sơn Nhất Cargo, Nội Bài Cargo…
Trái ngược với sự tăng trưởng của doanh thu, lợi nhuận của Vietnam Airlines giảm đi đáng kể trong 3 năm gần đây.
Trong giai đoạn 6 năm trước cổ phần hóa, năm 2010 có lợi nhuận cao nhất (đạt 314 tỷ đồng), và năm 2011 lợi nhuận thấp nhất là 36,6 tỷ đồng, nguyên nhân do biến động tỷ giá VND/USD làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh của Tổng công ty. Tới năm 2013, lợi nhuận của Vietnam Airlines đạt 157 tỷ đồng, tăng 14 so với lợi nhuận năm 2012 (tương đương mức tăng tuyệt đối là 19,5 tỷ đồng).
Vietnam Airlines cho biết, thời kỳ từ 2008 – 2013 là giai đoạn hết sức khó khăn đối với các ngành hàng không không trên toàn thế giới. Rất nhiều doanh nghiệp lớn trong khu vực đều gặp khó khăn như Japan Airlines (Nhật) tuyên bố phá sản năm 2010, Malaysia Airlines (Malaysia) lỗ trong 3 năm, Cebu Airlines (Philipines) bị lỗ cả 2 quý cuối năm 2013, Thai Airways (Thái Lan) cũng bị lỗ trong năm 2011 và 2013…
Vì vậy, việc Vietnam Airlines không bị lỗ, cân đối được thu chi và đạt mức lợi nhuận 933 tỷ đồng (công ty mẹ) và 3.233 tỷ đồng (hợp nhất) trong giai đoạn này là một nỗ lực lớn.
Vietnam Airlines cũng lý giải, lợi nhuận không ổn định do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu và sự suy giảm tăng trưởng kinh tế trong nước dẫn tới nhu cầu đi lại sụt giảm mạnh cũng như các biến động bất thường về chi phí giá nhiên liệu, tỷ giá và các yếu tố đầu khác.
Tại thời điểm 31/3/2013, tổng giá trị tài sản của Vietnam Airlines theo giá trị sổ sách là 57.19410 tỷ đồng, trong đó giá trị tài sản là máy bay lên tới 32.693 tỷ đồng, chiếm 58%.
Giá trị phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp: 10.576.378.635.374 đồng (mười nghìn năm trăm bảy mươi sáu tỷ, ba trăm bảy mươi tám triệu, sáu trăm ba mươi lăm nghìn, ba trăm bảy mươi tư đồng), tương đương 507,79 triệu USD (năm trăm lẻ bảy triệu, bảy trăm chín mươi nghìn đô la Mỹ).
Trước những con số về kết quả kinh doanh trên của Vietnam Airlines, nhiều chuyên gia kinh tế nhận định, Vietnam Airlines hoạt động chưa tương xứng với vị trí của mình. Là doanh nghiệp chiếm thị phần lớn nhất của ngành hàng không, có những đường bay độc quyền giá vé cao, luôn nhận được nhiều ưu đãi hơn các hãng hàng không khác về đường bay, giảm 25% trên biểu phí dịch vụ điều hành bay đi/đến, giá cất hạ cánh, soi chiếu an ninh hàng hóa, hành lý… Tuy nhiên, lợi nhuận của Vietnam Airlines đạt được lại quá thấp, thậm chí lợi nhuận không bằng một công ty tư nhân nhỏ tại một tỉnh lẻ.