Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ yêu cầu các bộ, ngành hoàn thành việc ban hành, công bố, công khai danh mục hàng hóa phải kiểm tra chất lượng (nhóm 2) bảo đảm thống nhất với danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu Việt Nam do Bộ Tài chính ban hành; cắt giảm tối đa tỉ lệ sản phẩm, hàng hóa phải kiểm tra trước thông quan, mỗi mặt hàng đều phải được gắn một mã số HS; công khai tiêu chuẩn, quy chuẩn cũng như căn cứ pháp lý thực hiện kiểm tra.
Rà soát, sửa đổi các thủ tục cấp phép, kiểm tra chuyên ngành đáp ứng tiêu chí quy định tại Nghị định số 63/2010/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung), hoàn thành trong Quý I năm 2019, trong đó, các thủ tục kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa phải bảo đảm:
Quy định rõ quy trình kiểm tra trước thông quan và sau thông quan trên cơ sở Danh mục sản phẩm, hàng hóa nhóm 2 thuộc phạm vi ngành, lĩnh vực được phân công quản lý; sản phẩm, hàng hóa kiểm tra trước thông quan phải là sản phẩm, hàng hóa có nguy cơ cao, trực tiếp ảnh hưởng đến dịch bệnh, truyền nhiễm, sức khỏe người dân, an ninh trật tự, an toàn xã hội, đạo đức, thuần phong mỹ tục và môi trường.
Công khai tiêu chuẩn, quy chuẩn cũng như căn cứ pháp lý thực hiện kiểm tra. ảnh minh họa: VGP. |
Bên cạnh đó, quy định rõ trình tự, thời gian, các bước thực hiện đối với từng thủ tục gắn với trách nhiệm của cơ quan kiểm tra nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa, với các cơ quan, tổ chức tham gia vào quy trình kiểm tra;
Xác định rõ các trường hợp cơ quan kiểm tra phải lấy mẫu hàng hóa để thử nghiệm, kiểm tra, thời gian lấy mẫu, tỉ lệ lấy mẫu, cách thức lấy mẫu, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp khi tham gia lấy mẫu, gửi kết quả thử nghiệm;
Quy định rõ cách thức thực hiện, yêu cầu về thành phần hồ sơ, đơn giản tối đa quy định về thành phần hồ sơ; công khai cách thức nộp các khoản phí, lệ phí (nếu có) theo phương thức điện tử phù hợp với cách thức thực hiện thủ tục hành chính trên Cổng thông tin một cửa quốc gia;
Quy định rõ các điều kiện, tiêu chí miễn kiểm tra, giảm kiểm tra hay kiểm tra chặt làm cơ sở đánh giá mức độ rủi ro, phân luồng hàng hóa, áp dụng phương thức kiểm tra phù hợp đảm bảo rút ngắn thời gian thông quan cho hàng hóa có mức độ rủi ro thấp.
Đồng thời, hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật theo quy định tại Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
Đối với các trường hợp chưa thể ban hành tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, báo cáo Thủ tướng Chính phủ nguyên nhân, giải pháp, lộ trình thực hiện sau khi đã có đầy đủ ý kiến của các Bộ, ngành liên quan trước ngày 31/12/2018;
Thực hiện nguyên tắc phân định trách nhiệm quản lý đối với sản phẩm, hàng hóa xuất, nhập khẩu theo sản phẩm, hàng hóa thay vì theo lĩnh vực quản lý chuyên ngành, đảm bảo không chồng chéo trong quản lý, kiểm tra chuyên ngành. Trong trường hợp cần có sự phối hợp giữa các Bộ, cơ quan, phải quy định rõ trách nhiệm phối hợp, thời gian phối hợp, đảm bảo chỉ cấp một kết quả cho doanh nghiệp đối với một mặt hàng, một lô hàng.
Sớm đưa tất cả các thủ tục cấp phép, kiểm tra chuyên ngành vào áp dụng Cơ chế một cửa quốc gia đáp ứng tiến độ tại Quyết định 2185/QĐ-TTg ngày 14/11/2016 của Thủ tướng Chính phủ.
Đồng thời, huy động các tổ chức đánh giá sự phù hợp tham gia áp dụng Cơ chế một cửa quốc gia trong quá trình giải quyết thủ tục kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; công bố đầy đủ, chính xác, đúng quy định các thủ tục hành chính thuộc phạm vi quản lý và công khai đầy đủ, chính xác thủ tục hành chính đã công bố trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính.