EMagazine

Chuyển đổi số trong giáo dục đại học không đơn thuần chỉ là áp dụng công nghệ

Chuyển đổi số trong giáo dục đại học không đơn thuần chỉ là áp dụng công nghệ

10/10/2024 06:23
Mộc Trà
0:00 / 0:00
0:00

GDVN-Chiến lược chuyển đổi số cần rõ ràng, cụ thể, phù hợp với tầm nhìn, sứ mệnh; linh hoạt trong triển khai, về cả mặt công nghệ lẫn tư duy quản lý, văn hóa tổ chức.

Tại Kết luận số 91-KL/TW, ngày 12/8/2024 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, đã đề cập đến 8 nhiệm vụ quan trọng cần tập trung thực hiện trong thời gian tới.

Trong đó, nhiệm vụ thứ tư nêu: Tập trung đầu tư chiều sâu, cơ sở vật chất, nguồn nhân lực chất lượng cao đối với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học công lập ở một số ngành, nghề, lĩnh vực mang tầm cỡ khu vực và quốc tế nhằm tạo đột phá, chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện về chất lượng đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao gắn với nghiên cứu, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chuyển đổi số quốc gia và hội nhập quốc tế; chú trọng các ngành, lĩnh vực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, nhất là các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật, công nghệ và các ngành mới như trí tuệ nhân tạo, khoa học dữ liệu, bán dẫn,...

Nhân dịp ngày Chuyển đổi số quốc gia 10/10, phóng viên có cuộc trao đổi với lãnh đạo Trung tâm phát triển phần mềm SDC (Đại học Đà Nẵng) và Viện Khoa học Kỹ thuật Bưu Điện (Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông), lắng nghe một số chia sẻ về công tác chuyển đổi số tại các cơ sở giáo dục đại học.

Vấn đề “then chốt” là nguồn lực về tài chính và nhân lực

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Nguyễn Hà Huy Cường - Giám đốc Trung tâm phát triển phần mềm SDC (Đại học Đà Nẵng) cho rằng, vấn đề đầu tư cơ sở vật chất về hạ tầng công nghệ thông tin theo các công nghệ mới nhất hiện nay, sẽ tạo ra những môi trường làm việc và quản trị dựa vào công nghệ số. Đối với nguồn nhân lực, ngành giáo dục tham gia vào đào tạo ra những người tài đức phục vụ, giải quyết bài toán cho lĩnh vực của giáo dục và các lĩnh vực kinh tế - xã hội khác.

Công nghệ số giúp xóa bỏ rào cản về địa lý và thời gian, tạo điều kiện cho mọi người học tập mọi lúc, mọi nơi. Việc phát triển học liệu số, tài nguyên học tập mở (OER) và các nền tảng học tập trực tuyến khuyến khích tinh thần học tập suốt đời, mở rộng kho tàng tri thức đến mọi đối tượng học tập.

Chuyển đổi số thúc đẩy các trường đại học điều chỉnh, thiết kế lại các chương trình học để đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động trong thời đại số.

A1.jpg

“Đại học Đà Nẵng đã có nhiều ngành học mới về khoa học dữ liệu, trí tuệ nhân tạo, an ninh mạng và công nghệ bán dẫn, công nghệ tài chính đang được phát triển mạnh mẽ từ các trường thành viên. Đầu tư vào các hệ thống thông tin quản lý (MIS), hệ thống thông tin học tập (LMS) và cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin giúp các trường đại học tự động hóa nhiều quy trình, từ quản lý hành chính, giảng dạy đến nghiên cứu.

Vì thế, theo tôi, chuyển đổi số không chỉ là mục tiêu mà còn là công cụ quan trọng giúp thúc đẩy sự phát triển của ngành giáo dục. Các cơ sở giáo dục, đặc biệt là các trường đại học, cần chủ động trong việc xây dựng chiến lược chuyển đổi số, từ cơ sở hạ tầng đến con người, để đáp ứng yêu cầu của thời đại mới” - Tiến sĩ Nguyễn Hà Huy Cường chia sẻ.

Giám đốc Trung tâm phát triển phần mềm bày tỏ, giai đoạn 2000-2020, trung tâm đã nghiên cứu và phát triển nhiều giải pháp phục vụ cho chính bài toán quản lý của trung tâm; các phòng ban chức năng tại Đại học Đà Nẵng và triển khai cho nhiều đơn vị thành viên.

“Tôi cho rằng, đây là thời kỳ “vàng son” Tin học hóa, dấu ấn là rất lớn. Nhiệm vụ của trung tâm là nghiên cứu chuyển giao công nghệ; luôn tiên phong đi đầu trong việc nghiên cứu áp dụng công nghệ mới, công nghệ lõi trong việc xây dựng phát triển các giải pháp. Vì thế, những sản phẩm tư vấn và triển khai thực tế của luôn được xã hội đánh giá cao.

Đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng, trung tâm luôn xây dựng các chương trình đào tạo, bồi dưỡng theo hướng chuyên sâu; chuyên môn hóa cao ở nhiều cấp độ từ cơ bản tới nâng cao. Vì thế, cũng đã góp phần đào tạo ra rất nhiều đội ngũ nguồn nhân lực có chất lượng đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp.

Trong kỷ nguyên cuộc cách mạng công nghệ 4.0 và chiến lược chuyển đổi số, trung tâm luôn kế thừa những kinh nghiệm đã có từ trước; tiếp tục xây dựng hoạch định rõ ràng, đề ra lộ trình cho bài toán chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục đào tạo và bài toán xã hội số.

Trung tâm đã xây dựng không gian thực tập sáng tạo, phục vụ sinh viên có nhu cầu và tham gia tích cực trong việc tư vấn, tham mưu các đề án, đề tài nghiên cứu triển khai giải quyết số hóa cho các lĩnh vực” - Tiến sĩ Nguyễn Hà Huy Cường thông tin thêm.

Chia sẻ thêm về những thế mạnh của trung tâm, vị Giám đốc cho biết: “Trung tâm được Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định thành lập vào năm 2000, là đơn vị “có tuổi đời” và chứng kiến quá trình Tin học hóa của quốc gia giai đoạn 2000-2015. Ngoài phát triển phần mềm, trung tâm còn hoạt động mạnh trong các lĩnh vực công nghệ tiên tiến như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, blockchain, và an ninh mạng.

Sự đa dạng này giúp trung tâm duy trì sức hút đối với các đối tác doanh nghiệp cũng như giới nghiên cứu. Trung tâm luôn có sự hợp tác chặt chẽ với các doanh nghiệp công nghệ lớn trong và ngoài nước, giúp các dự án nghiên cứu phát triển gắn liền với nhu cầu thực tế của thị trường. Một trong những thế mạnh là có đội ngũ giảng viên, chuyên gia với nhiều năm kinh nghiệm trong nghiên cứu và giảng dạy”.

Trong thời gian tới, Trung tâm phát triển phần mềm SDC tiếp tục với những kế hoạch đã đề ra như xây dựng không gian thực tập nghiên cứu sáng tạo; tích cực trong việc phối hợp đào tạo; tổ chức hội nghị hội thảo về nhận thức chuyển đổi số có các đơn vị có nhu cầu; tham gia tư vấn góp ý cho các cấp lãnh đạo; Ban Giám đốc Đại học Đà Nẵng về lộ trình chuyển đổi số;

Trong đó, theo Tiến sĩ Nguyễn Hà Huy Cường, vấn đề “then chốt” để tạo nên thành công chuyển đổi số trong giáo dục và cơ sở giáo dục chính là nguồn lực về tài chính, vì khi triển khai bài toán số phải dựa vào các lõi công nghệ như: Điện toán đám mây; Dữ liệu lớn; Trí tuệ nhân tạo và Internet vạn vật, rất cần chi phí đầu tư; Thứ hai là nguồn lực về nhân lực vì đối với chuyển đổi số, yếu tố về con người rất quan trọng.

Hiện nay, những chuyên gia về lĩnh vực công nghệ, đặc biệt công nghệ cao, công nghệ bán dẫn, chưa đáp ứng cả số lượng và chất lượng. Vì thế, việc chú trọng đào tạo ra những chuyên gia hết sức cấp thiết, trong đó, chú trọng vào công nghệ lõi và công nghệ chip bán dẫn.

A2.jpg

Với 21 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và tham gia vào công tác đào tạo, quản lý, Tiến sĩ Nguyễn Hà Huy Cường nhận định, có một số thời cơ và thách thức chính mà các trường đại học đang phải đối mặt hiện nay.

Về thuận lợi, chuyển đổi số mang lại cơ hội lớn cho các trường đại học trong việc áp dụng công nghệ vào giảng dạy. Vai trò “đầu tàu” của đại học trong việc chuyển giao công nghệ, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học công nghệ và kỹ thuật số. Tạo điều kiện và cơ hội cho sinh viên, giảng viên tham gia vào các chương trình quốc tế mà không bị hạn chế bởi vị trí địa lý. Thời đại chuyển đổi số đòi hỏi nguồn nhân lực có kỹ năng cao trong các lĩnh vực công nghệ thông tin, AI, dữ liệu, và an ninh mạng, công nghệ bán dẫn. Đây là cơ hội lớn để các trường đại học điều chỉnh chương trình đào tạo, đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động và cung cấp lực lượng lao động chất lượng cao cho quá trình chuyển đổi số quốc gia.

Ngoài ra, vị Giám đốc cũng chỉ ra 2 thách thức: “Để thực hiện thành công chuyển đổi số, các trường đại học cần đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng công nghệ như hệ thống đường truyền, hạ tầng dịch vụ, nền tảng dữ liệu; phần mềm quản lý học tập và bảo mật dữ liệu.

Chuyển đổi số không chỉ là việc áp dụng công nghệ mà còn đòi hỏi sự thay đổi toàn diện trong cách quản lý và tư duy. Các trường đại học cần xây dựng một văn hóa tổ chức linh hoạt, sẵn sàng thích ứng với sự thay đổi liên tục của công nghệ và thị trường lao động.

Với đặc điểm trường đại học không chỉ là nơi đào tạo nhân lực mà còn là trung tâm nghiên cứu và đổi mới, có vai trò quan trọng trong việc dẫn dắt và hiện thực hóa quá trình chuyển đổi số”.

Theo đó, Tiến sĩ Nguyễn Hà Huy Cường cho rằng, cần có một chiến lược chuyển đổi số rõ ràng, cụ thể phù hợp với tầm nhìn và sứ mệnh của từng tổ chức. Đồng thời, linh hoạt trong triển khai, không chỉ về mặt công nghệ mà còn về tư duy quản lý và văn hóa tổ chức.

Các trường đại học cần tích hợp các kỹ năng số vào chương trình giảng dạy, không chỉ trong các ngành liên quan đến công nghệ thông tin mà còn trong các ngành khác như kinh tế, giáo dục, y học.

Xây dựng mối quan hệ hợp tác chiến lược với các doanh nghiệp công nghệ để sinh viên có thể tham gia vào các dự án thực tế, giúp họ áp dụng kiến thức vào thực tiễn và sẵn sàng cho môi trường làm việc tương lai.

Tất cả đều được thể hiện minh bạch trên môi trường số

Cùng trao đổi với phóng viên, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Ngô Quốc Dũng - Phó Viện trưởng phụ trách Viện Khoa học Kỹ thuật Bưu Điện (Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông) cũng chia sẻ về công tác chuyển đổi số tại Học viện (được chia thành 3 giai đoạn).

Cụ thể, vị phó giáo sư cho biết: “Giai đoạn đầu tiên được triển khai từ năm 2020, đến nay, đã hoàn thành xây dựng được một nền tảng để phục vụ thu thập các quy trình nghiệp vụ hóa trên nền tảng môi trường mạng và cho phép thu thập và lưu trữ tất cả dữ liệu liên quan. Trong quá trình xây dựng, Học viện cũng chuyển giao một số nền tảng cho các đơn vị khác, hệ thống hoạt động ổn định.

Giai đoạn thứ hai đang được triển khai từ đầu năm 2024 đến nay, trong việc quản trị, hỗ trợ ra quyết định cho lãnh đạo dựa trên cơ sở dữ liệu. Tức là, sau khi thu thập dữ liệu, đã giúp lãnh đạo có một bức tranh toàn cảnh về việc vận hành của Học viện, từ đó, đưa ra những quyết nghị chính xác, hiệu quả hơn.

Giai đoạn thứ ba, dự kiến sẽ bắt đầu triển khai từ giữa năm 2025, tối ưu toàn bộ quy trình nghiệp vụ và bắt đầu tinh chỉnh. Ví dụ, khi sinh viên hay giảng viên cần có giấy xác nhận, dữ liệu trên hệ thống đã toàn vẹn và chỉnh thể, không cần thiết phải có sự tham gia của một số bộ phận phòng, ban trong việc đối soát dữ liệu nữa, mà dữ liệu phải được lấy trực tiếp từ hệ thống… Như vậy, giai đoạn này sẽ bắt đầu thay đổi quy trình sao cho tối ưu và tinh gọn. Đó là cách tiếp cận của Học viện trong quá trình chuyển đổi số”.

Nhân ngày Chuyển đổi số quốc gia 1010, Tiến sĩ Nguyễn Hà Huy Cường có một số kiến nghị nhằm phát huy hơn nữa hiệu quả của công tác chuyển đổi số trong các cơ sở giáo dục đại học. Chuyển đổi số khô (2).jpg

Chia sẻ về điểm mạnh của Học viện, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Ngô Quốc Dũng cho biết: “Đầu tiên, điểm mạnh nhất phải kể đến Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông trực thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông. Lãnh đạo Bộ rất ủng hộ việc triển khai chuyển đổi số tại nhà trường. Đã là chuyển đổi số, quan trọng nhất là thay đổi từ nhận thức của lãnh đạo, lãnh đạo phải nhận thấy tầm quan trọng, đưa ra những định hướng chuẩn hơn. Cùng với đó, trong khuôn khổ của Bộ Thông tin và Truyền thông, có rất nhiều đơn vị, ví dụ Cục Chuyển đổi số quốc gia hay một số đơn vị khác chuyên về chuyển đổi số. Thế nên, ngay từ ban đầu, khi xây dựng mô hình “kim chỉ nam” để phát triển, chuyển đổi số, Học viện đã có thể tham khảo được ở rất nhiều đơn vị hàng đầu.

Điểm mạnh thứ hai là cách tiếp cận của Học viện, “từ trong ra ngoài” và “từ ngoài vào trong”. “Từ trong ra ngoài” là từ những điều kiện nội tại, Học viện tìm ra được những vấn đề cần phải thay đổi, những khó khăn cần phải tháo gỡ ngay lập tức. Học viện sẽ triển khai chuyển đổi số cho những điểm đó trước, khi hoàn thành, mới đẩy ra bên ngoài cho các đơn vị khác sử dụng chung. Khi các đơn vị khác sử dụng chung, họ sẽ có những góc nhìn, góp ý có thể hoàn thiện hơn cho hệ thống và lúc này, quay ngược lại cập nhật cho Học viện.

Điểm mạnh thứ ba, đội ngũ phát triển của Học viện lại là chính là cán bộ, giảng viên, nghiên cứu viên, kỹ sư trong việc triển khai hệ thống. Thế nên, đội ngũ vừa có kỹ thuật, vừa có nghiệp vụ, hiểu rất rõ nên vận hành như thế nào, quá trình phân tích sát hơn và phục vụ nhu cầu thực tế hằng ngày”.

Theo vị Phó Viện trưởng, một trong những yếu tố “then chốt” nhất để thực hiện chuyển đổi số thành công, đó là ý chí của lãnh đạo; nếu thực sự lãnh đạo mong muốn, thì trong tất cả hành động, chiến lược, kế hoạch đề ra, chắc chắn hệ thống sẽ “chạy”.

“Theo tôi, trong quá trình chuyển đổi số, yếu tố kỹ thuật chỉ chiếm khoảng 20-25%, còn lại là yếu tố con người, quy trình nghiệp vụ… Bởi lẽ, trong quá trình chuyển đổi số, việc thay đổi thói quen là quan trọng nhất. Nếu không có sự quyết liệt của lãnh đạo, thì gần như chẳng ai muốn thay đổi thói quen, họ vẫn cứ theo đà cũ mà làm.

Điều quan trọng thứ hai là phải có sự đồng hành giữa bên kỹ thuật và bên nghiệp vụ. Tức là, cần có một đội ngũ kỹ thuật đồng hành xây dựng nền tảng, cùng nhau thấu hiểu quá trình, bởi chắc chắn có những lúc vận hành không tốt, nhưng phải vượt qua được những thời điểm ấy, phải vượt qua được những khó khăn…” - vị phó giáo sư cho hay.

Nhân ngày Chuyển đổi số quốc gia 1010, Tiến sĩ Nguyễn Hà Huy Cường có một số kiến nghị nhằm phát huy hơn nữa hiệu quả của công tác chuyển đổi số trong các cơ sở giáo dục đại học. Chuyển đổi số khô (1).jpg

Thầy Dũng phân tích: “Nhìn một cách tổng quan, hiện tại, xu thế chung của Việt Nam là các cơ sở giáo dục đại học sẽ tiến tới tự chủ 100%. Khi các trường tự chủ, thì việc tối ưu toàn bộ bộ máy, làm sao đưa ra những chương trình đào tạo tốt, đáp ứng được yêu cầu của xã hội… là rất quan trọng. Và quan trọng nhất, vẫn là tối ưu toàn bộ quá trình vận hành của một trường đại học. Khi đó, tư duy của các trường đại học phải thay đổi: Sinh viên, giảng viên là “cốt lõi”, là trọng tâm của toàn bộ quá trình vận hành của một trường đại học (tạm bỏ qua kỹ thuật). Thế nên, phải đặt ra bài toán nâng cao chất lượng, nâng cao năng lực của giảng viên, phải gắn giữa đào tạo với nhu cầu xã hội…

Chuyển đổi số tạm được gọi là “sống còn”, vì thông qua chuyển đổi số, lãnh đạo nhà trường sẽ có bức tranh tổng thể nhất về quá trình đào tạo, chương trình đào tạo của nhà trường có thực sự tốt hay không, có phù hợp với năng lực của người học hay không, có được cập nhật hay không, có đáp ứng được yêu cầu của xã hội hay không, năng lực của giảng viên có tăng hay không… Tất cả đều được thể hiện trên môi trường số một cách minh bạch”.

Không nên thí điểm thành lập trường đại học số theo hướng đơn lẻ

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Ngô Quốc Dũng bày tỏ: “Hiện tại, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Thông tin và Truyền thông cũng đã và đang đưa ra rất nhiều chiến lược để nâng cao hiệu quả thực hiện chuyển đổi số trong các cơ sở giáo dục đại học. Trong đó, có thể kể đến đề xuất thí điểm thành lập các trường đại học số.

Tuy nhiên, theo tôi, không nên định hướng phát triển theo kiểu đơn lẻ, tức là từng trường phát triển thành một hệ thống riêng. Mặc dù mỗi trường sẽ có những đặc thù riêng, nhưng cũng cần có tư duy tổng quan là nên có một hệ thống tổng thể, có thể đáp ứng khoảng 60-70% về mặt quản lý chung của một trường đại học. Tức là, các trường chỉ nên xây dựng khoảng 30-40% dựa trên đặc thù của từng trường; còn lại, 60-70% kia nên là một đơn vị quản lý nhà nước hoặc một đơn vị nào đó hỗ trợ triển khai.

Như vậy, chúng ta vừa tận dụng được nguồn lực chung; mà dữ liệu cũng sẽ được liên thông. Từ đó, Nhà nước cũng sẽ có cái nhìn tổng thể hơn về việc phát triển nguồn nhân lực cho tất cả các vùng miền”.

Az.jpg
Mộc Trà