Đề xuất tăng số lượng báo quốc tế, quy định thuộc WoS/Scopus ở chuẩn giảng viên cao cấp

26/10/2025 06:25
Khánh Hòa
Theo dõi trên Google News
0:00 / 0:00
0:00

GDVN- Dự thảo Thông tư quy định chuẩn nghề nghiệp giảng viên cao cấp đặt ra yêu cầu cao hơn về nghiên cứu, đào tạo, biên soạn học liệu, hướng tới chuẩn quốc tế.

Bộ Giáo dục và Đào tạo đã công bố dự thảo Thông tư Quy định chuẩn nghề nghiệp giảng viên giảng dạy trong cơ sở giáo dục đại học. Trong đó nhấn mạnh, giảng viên đại học cao cấp phải có năng lực nghiên cứu khoa học, đáp ứng 4 tiêu chí.

Thứ nhất, chủ trì thực hiện ít nhất 2 nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp cơ sở hoặc 1 nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp cao hơn đã nghiệm thu với kết quả từ đạt yêu cầu trở lên.

Thứ hai, hướng dẫn ít nhất 2 học viên được cấp bằng thạc sĩ hoặc hướng dẫn chính hoặc phụ ít nhất 1 nghiên cứu sinh được cấp bằng tiến sĩ.

Thứ ba, chủ trì biên soạn ít nhất 1 sách phục vụ đào tạo được hội đồng khoa học thẩm định, nghiệm thu và đưa vào sử dụng trong đào tạo, bồi dưỡng từ trình độ đại học trở lên phù hợp với ngành, chuyên ngành giảng dạy hoặc đào tạo của giảng viên và có mã số chuẩn quốc tế ISBN.

Thứ tư, tác giả của ít nhất 6 bài báo khoa học là công trình nghiên cứu khoa học của giảng viên đã được công bố trên tạp chí khoa học có mã số chuẩn quốc tế ISSN.

Để đạt chuẩn giảng viên cao cấp cần có năng lực nghiên cứu và đào tạo sau đại học

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Giảng viên cao cấp Cao Cự Giác - Phó Trưởng khoa, Khoa Hóa học, Trường Đại học Vinh chia sẻ: "Các tiêu chí để đạt chuẩn giảng viên đại học cao cấp trong dự thảo cho thấy sự tập trung toàn diện vào ba trụ cột là nghiên cứu khoa học, đào tạo sau đại học và biên soạn sách phục vụ đào tạo.

Các tiêu chí này được xem là ngưỡng tối thiểu hợp lý để phân định rõ năng lực của giảng viên cao cấp, đồng thời nhấn mạnh yêu cầu về tính chủ động, chất lượng và đóng góp thực chất trong cả hoạt động nghiên cứu lẫn đào tạo. Tuy nhiên, để tiệm cận chuẩn mực quốc tế, cần xem xét việc định lượng hóa, phân loại chất lượng sản phẩm khoa học, đặc biệt là xếp hạng tạp chí quốc tế một cách rõ ràng hơn".

fb1e8a73d6225b7c0233.jpg
Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Giảng viên cao cấp Cao Cự Giác - Phó Trưởng khoa, Khoa Hóa học, Trường Đại học Vinh. Ảnh: NVCC.

Theo thầy Giác, dự thảo yêu cầu giảng viên cao cấp phải chủ trì ít nhất 2 nhiệm vụ khoa học cấp cơ sở hoặc 1 nhiệm vụ cấp cao hơn là quy định hợp lý và cần thiết, phản ánh đúng vai trò của một chuyên gia trong lĩnh vực nghiên cứu. Việc này khẳng định năng lực lãnh đạo, tổ chức và triển khai nghiên cứu độc lập của giảng viên, từ tự tìm kiếm kinh phí, quản lý đội nhóm đến chịu trách nhiệm về kết quả nghiệm thu đạt yêu cầu trở lên.

Mức yêu cầu tối thiểu này là công cụ đo lường toàn diện khả năng dẫn dắt khoa học, đảm bảo giảng viên cao cấp không chỉ có kiến thức chuyên môn mà còn có khả năng thực hiện dự án nghiên cứu có tính ứng dụng và quy mô. Tuy nhiên, tiêu chí này sẽ hoàn thiện hơn nếu được xác định kèm theo khung thời gian cụ thể nhằm đảm bảo năng lực nghiên cứu là liên tục và hiện tại, ví dụ xét trong 5 năm gần đây.

Về tiêu chí yêu cầu giảng viên cao cấp phải hướng dẫn ít nhất 2 thạc sĩ hoặc 1 nghiên cứu sinh được cấp bằng là quy định cơ bản phù hợp để khẳng định năng lực đào tạo chuyên sâu cũng như truyền thụ kiến thức cho người học. Tiêu chí đã phản ánh đúng vai trò của giảng viên cao cấp, đặc biệt là khả năng hướng dẫn nghiên cứu sinh, vốn đòi hỏi chuyên môn cao.

Tuy vậy, tiêu chí này chưa thực sự linh hoạt với tình hình thực tế nên cần quy định rõ ràng về hệ số quy đổi đối với vai trò hướng dẫn phụ nghiên cứu sinh, tránh sự không công bằng. Đồng thời, nên bổ sung quy định về khung thời gian tính thành tích nhằm đảm bảo năng lực là liên tục.

Đồng quan điểm, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Giảng viên cao cấp Phạm Hồng Mạnh - Trưởng khoa, Khoa Kinh tế, Trường Đại học Nha Trang đánh giá, Thông tư 40/2020/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp, bổ nhiệm và xếp lương đối với viên chức giảng dạy trong các cơ sở giáo dục đại học công lập chỉ áp dụng với viên chức giảng dạy trong các cơ sở giáo dục công lập.

Lần này, dự thảo Thông tư mới đã áp dụng đồng bộ cho cả trường công và trường tư để đảm bảo sự công bằng trong hệ thống cơ sở giáo dục đại học cũng như đảm bảo yêu cầu quản lý Nhà nước về giáo dục đại học.

Để đáp ứng các tiêu chí về nhiệm vụ khoa học như quy định trong dự thảo, mỗi giảng viên phải trải qua quá trình dài tích lũy kiến thức chuyên môn, rèn luyện phương pháp và kinh nghiệm nghiên cứu.

Việc được giao chủ trì nhiệm vụ khoa học ở cấp cơ sở hay cấp cao hơn, không phải lúc nào cũng thuận lợi. Khó khăn có thể đến từ khâu đề xuất đề tài, nguồn kinh phí hạn hẹp hoặc những yếu tố khách quan khác. Vì vậy, giảng viên cao cấp phải chủ trì ít nhất 2 nhiệm vụ khoa học cấp cơ sở hoặc 1 nhiệm vụ cấp cao hơn vẫn là thách thức với nhiều thầy cô tại các cơ sở giáo dục đại học.

Bên cạnh đó, việc hướng dẫn ít nhất 2 học viên được cấp bằng thạc sĩ là tiêu chí ở mức vừa phải. Tuy nhiên, hướng dẫn chính hoặc phụ ít nhất 1 nghiên cứu sinh được cấp bằng tiến sĩ trong điều kiện hiện nay không phải là tiêu chí dễ dàng, do liên quan đến công bố quốc tế của nghiên cứu sinh. Xét trên mặt bằng chung của cả trường đại học công lập và tư thục, đây được xem là tiêu chí khá cao. Khả năng đáp ứng tiêu chí này còn phụ thuộc vào đặc thù của từng cơ sở đào tạo, đặc biệt là việc trường có tổ chức đào tạo trình độ sau đại học hay không.

thay-manh.jpg
Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Giảng viên cao cấp Phạm Hồng Mạnh - Trưởng khoa, Khoa Kinh tế, Trường Đại học Nha Trang. Ảnh: NVCC.

Cần làm rõ chất lượng tạp chí và vai trò tác giả trong công bố khoa học

Một trong những tiêu chí đặt ra với giảng viên cao cấp mà dự thảo nêu là tác giả của ít nhất 6 bài báo khoa học là công trình nghiên cứu khoa học của giảng viên đã được công bố trên tạp chí khoa học có mã số chuẩn quốc tế ISSN.

Liên quan đến nội dung này, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Giảng viên cao cấp Vũ Huy Đại - Trưởng phòng, Phòng Khoa học và Công nghệ, Trường Đại học Lâm nghiệp cho rằng, tiêu chí tác giả của ít nhất 6 bài báo khoa học là công trình nghiên cứu khoa học của giảng viên đã được công bố trên tạp chí khoa học có mã số chuẩn quốc tế ISSN cần tăng số lượng lên ít nhất là 10 bài báo. Điều này giúp phản ánh đúng năng lực nghiên cứu và vai trò học thuật của giảng viên cao cấp.

Giảng viên cao cấp không chỉ giảng dạy mà còn phải dẫn dắt nghiên cứu, hướng dẫn nghiên cứu sinh, chủ trì đề tài, phát triển nhóm nghiên cứu nên yêu cầu tối thiểu 10 bài báo có ISSN giúp phân hóa rõ năng lực giữa giảng viên chính và giảng viên cao cấp, tạo động lực nâng cao năng suất khoa học. Đây cũng là con số hợp lý thể hiện quá trình nghiên cứu bền vững, có hướng chuyên sâu và liên tục trong ít nhất từ 5-10 năm.

Ở một số quốc gia như Hàn Quốc, Malaysia, Thái Lan tiêu chuẩn chức danh tương đương Associate Professor/ Full Professor yêu cầu từ 10-15 bài báo WoS/Scopus hoặc tương đương. Việc nâng yêu cầu lên 10 bài, bao gồm cả tạp chí có mã ISSN trong nước và quốc tế là bước tiến tiệm cận chuẩn mực quốc tế nhưng vẫn khả thi, khi chấp nhận các bài đăng trên tạp chí uy tín trong nước.

Trong bối cảnh chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo và nghiên cứu ứng dụng, các nhóm nghiên cứu thường có nhiều bài báo đồng tác giả. Khi tăng số lượng sẽ thúc đẩy hoạt động nhóm nghiên cứu mạnh, lan tỏa văn hóa công bố, thay vì chỉ dừng ở những bài mang tính cá nhân.

Không chỉ vậy, mỗi bài báo khoa học là kết quả của quá trình nghiên cứu nghiêm túc, góp phần làm mới nội dung giảng dạy, cập nhật tri thức cho người học. Do đó, tăng số lượng bài báo không chỉ mang ý nghĩa định lượng mà còn giúp nâng cao chất lượng học liệu, bài giảng trong cơ sở giáo dục đại học.

snapedit-1760242932359.jpg
Giảng viên và sinh viên Trường Đại học Lâm nghiệp trong một buổi nghiên cứu khoa học. Ảnh website nhà trường.

Cũng theo thầy Đại, dự thảo đã đưa ra các tiêu chí theo từng lĩnh vực cần thực hiện của giảng viên cao cấp, trong đó chú trọng thành tích về đào tạo, nghiên cứu khoa học, công bố khoa học và hướng dẫn sau đại học.

Trong đó, tiêu chí về chủ trì biên soạn ít nhất 1 sách phục vụ đào tạo được hội đồng khoa học thẩm định, nghiệm thu và đưa vào sử dụng trong đào tạo, bồi dưỡng từ trình độ đại học trở lên phù hợp với ngành, chuyên ngành giảng dạy hoặc đào tạo của giảng viên và có mã số chuẩn quốc tế ISBN cần xem xét, sửa lại là "tham gia biên soạn" thay vì "chủ trì biên soạn".

Việc biên soạn sách phục vụ đào tạo đại học và sau đại học thường là hoạt động tập thể, liên ngành, đòi hỏi sự tham gia của nhiều chuyên gia, giảng viên cao cấp từ những lĩnh vực khác nhau. Trong bối cảnh chương trình đào tạo tích hợp, đổi mới phương pháp giảng dạy, việc yêu cầu cá nhân chủ trì toàn bộ sẽ ít khả thi và không phản ánh đúng thực tế học thuật. Vì vậy, sửa thành "tham gia biên soạn" sẽ thể hiện đúng bản chất đóng góp học thuật và vai trò hợp tác của giảng viên cao cấp trong quá trình phát triển tài liệu giảng dạy.

Ngoài ra, sách được hội đồng khoa học thẩm định, nghiệm thu có mã ISBN và được sử dụng chính thức trong đào tạo, đồng nghĩa với việc giá trị khoa học đã được công nhận. Khi đó, vai trò “tham gia biên soạn” của giảng viên cao cấp vẫn thể hiện đóng góp học thuật đáng kể, đặc biệt nếu là tác giả chính, biên tập viên hoặc phụ trách nội dung chuyên sâu.

Quan trọng nằm ở chất lượng và giá trị ứng dụng của sách đã được thẩm định, nghiệm thu và sử dụng trong đào tạo, không chỉ ở danh nghĩa chủ trì. Do đó, thầy cô tham gia biên soạn với vai trò chính hoặc chịu trách nhiệm học thuật một phần nội dung cốt lõi vẫn đáp ứng yêu cầu về năng lực chuyên môn cũng như đóng góp đào tạo.

Trong khi đó, thầy Cao Cự Giác cho rằng, việc yêu cầu giảng viên cao cấp phải chủ trì biên soạn ít nhất 1 sách phục vụ đào tạo có mã số chuẩn quốc tế ISBN là tiêu chí hợp lý và cần thiết để đánh giá năng lực phát triển học liệu chuyên sâu. Tiêu chí này không chỉ khẳng định kiến thức sâu rộng và khả năng hệ thống hóa của giảng viên mà còn đảm bảo tính nghiêm túc và chuẩn mực quốc tế của tài liệu thông qua mã ISBN và quy trình thẩm định, nghiệm thu của hội đồng khoa học.

Tuy nhiên, việc chỉ yêu cầu "ít nhất 1 sách" nên là mức tối thiểu. Để thực sự tương xứng với danh hiệu giảng viên cao cấp nên xem xét nâng mức yêu cầu về số lượng hoặc tính chất của sách, đồng thời cần có quy đổi rõ ràng giữa sách giáo trình, sách chuyên khảo, sách tham khảo để đánh giá đúng mức độ đóng góp học thuật của giảng viên.

Bên cạnh đó, việc yêu cầu giảng viên cao cấp là tác giả của ít nhất 6 bài báo khoa học có mã ISSN cũng nhằm đảm bảo duy trì năng lực nghiên cứu và công bố khoa học tối thiểu. Tiêu chí này giúp chuẩn hóa các ấn phẩm được tính thành tích nhưng chưa đủ mạnh để phân biệt rõ ràng cấp bậc cao cấp theo chuẩn mực quốc tế. Điểm hạn chế lớn nhất là thiếu phân loại chất lượng tạp chí, khi chỉ yêu cầu ISSN mà không ưu tiên hoặc quy định rõ ràng về số lượng bài báo trên các tạp chí quốc tế uy tín (WoS/Scopus).

Hơn nữa, việc chưa làm rõ vai trò tác giả cùng khung thời gian tính thành tích có thể dẫn đến việc đánh giá chưa chính xác về mức độ đóng góp và năng lực nghiên cứu hiện tại của giảng viên.

Để bộ chuẩn nghề nghiệp giảng viên cao cấp vừa đảm bảo tính chuẩn hóa quốc tế vừa phù hợp với thực tiễn đa dạng của cơ sở giáo dục đại học Việt Nam, thầy Giác cho rằng, cần có sự điều chỉnh theo hướng định lượng chất lượng.

Cụ thể, nên yêu cầu một tỷ lệ tối thiểu bắt buộc đối với công bố trên tạp chí quốc tế uy tín (Scopus/WoS), áp dụng hệ số quy đổi rõ ràng cho vị trí tác giả (tác giả chính, tác giả liên hệ, tác giả tham gia) và các loại nhiệm vụ khoa học có tính cạnh tranh cao. Đồng thời, cần giới hạn khung thời gian, ví dụ xét trong 5 năm tính đến ngày nộp hồ sơ để tính thành tích và áp dụng cơ chế quy đổi linh hoạt cho tiêu chí hướng dẫn sau đại học (hướng dẫn chính, phụ).

Bộ Giáo dục và Đào tạo cần phân loại các cơ sở đào tạo thành nhóm nghiên cứu và nhóm ứng dụng để áp dụng bộ tiêu chí linh hoạt như cho phép quy đổi nghiên cứu thành sáng chế, chuyển giao công nghệ ở nhóm ứng dụng. Ngoài ra, cần có chính sách giảm tải giờ giảng cho giảng viên cao cấp để họ có đủ thời gian thực hiện nghiên cứu chuyên sâu.

sinh-vien-truong-dai-hoc-nha-trang.jpg
Sinh viên Trường Đại học Nha Trang trong một buổi thực hành thí nghiệm. Ảnh website nhà trường.

Còn theo thầy Phạm Hồng Mạnh, mã số ISSN là mã chuẩn quốc tế dành cho các ấn phẩm nhiều kỳ, được công nhận và sử dụng trên phạm vi toàn cầu. Việc một tạp chí có mã ISSN đồng nghĩa với việc được thừa nhận là ấn phẩm chính thức và có thể giới thiệu rộng rãi quốc tế, nhưng ISSN chỉ là mã định danh, không phản ánh chất lượng khoa học của các bài báo đăng tải.

Điều này khác với các hệ thống phân loại uy tín như WoS hay Scopus, vốn được xem là thước đo chất lượng học thuật quốc tế. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu hội nhập, cần xem xét bổ sung tiêu chí công bố trên các tạp chí uy tín, nằm trong danh mục WoS/Scopus.

"Dự thảo mới đã thể hiện sự chuyển đổi từ quản lý theo chức danh nghề nghiệp có phân hạng theo Thông tư số 40/2020/TT-BGDĐT sang quản lý theo chuẩn nghề nghiệp cho từng cấp độ, mở rộng phạm vi áp dụng sang cả cơ sở ngoài công lập. Đồng thời, có xu hướng siết chặt cũng như nâng cao các tiêu chí về nghiên cứu khoa học, đặc biệt đối với chức danh giảng viên cao cấp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên cho cơ sở giáo dục đại học.

Để đội ngũ giảng viên cao cấp có chất lượng tốt hơn và phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế, có thể xem xét điều chỉnh tiêu chí “Tác giả của ít nhất 6 bài báo khoa học là công trình nghiên cứu khoa học của giảng viên đã được công bố trên tạp chí khoa học có mã số chuẩn quốc tế ISSN” thành “Tác giả của ít nhất 6 bài báo khoa học là công trình nghiên cứu khoa học của giảng viên đã được công bố trên tạp chí khoa học có mã số chuẩn quốc tế ISSN, trong đó có ít nhất 1 bài báo được công bố trên các tạp chí quốc tế có uy tín”, thầy Mạnh nêu quan điểm.

Khánh Hòa