ĐB Vương Quốc Thắng: Thúc đẩy mọi nguồn lực để ĐH thành trụ cột phát triển KTXH

04/11/2024 16:25
Mộc Hương
0:00 / 0:00
0:00

GDVN- ĐBQH Vương Quốc Thắng nhấn mạnh, cần nhanh chóng tháo gỡ các vướng mắc, thúc đẩy mọi nguồn lực, biến ĐH trở thành trụ cột trong phát triển KT-XH của đất nước

Ngày 04/11, tiếp tục Chương trình Kỳ họp thứ 8, Quốc hội tiến hành thảo luận tại hội trường về Đánh kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024; dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2025.

Tại phiên thảo luận, nhiều đại biểu Quốc hội quan tâm đến lĩnh vực giáo dục và đào tạo.

Thúc đẩy mọi nguồn lực để đại học trở thành trụ cột phát triển kinh tế-xã hội

Đại biểu Quốc hội Vương Quốc Thắng (đoàn Quảng Nam) cho biết: “Trong thư gửi ngành giáo dục nhân dịp năm học mới, Tổng Bí thư Tô Lâm đánh giá, sau 10 năm thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, nền giáo dục nước ta đã có những bước phát triển mạnh mẽ và đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần to lớn trong việc nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước.

Thực tế cho thấy, tự chủ đại học là điểm đột phá, động lực cho các cơ sở giáo dục đại học xây dựng và dần phát huy tối đa mọi nguồn lực để phát triển theo chuẩn mực quốc tế, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của thực tiễn. Dẫu vậy, đào tạo sau đại học cho khối ngành khoa học, kỹ thuật và công nghệ, nền tảng của công nghiệp tự cường kết hợp với nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo của hệ thống giáo dục đại học cần phải tiếp tục có sự quan tâm đặc biệt.

Số liệu của Bộ Giáo dục và Đào tạo cho thấy, nghiên cứu sinh tiến sĩ và học viên cao học năm học 2023-2024 của cả nước chỉ đạt 47,16% và xấp xỉ 57% so với chỉ tiêu được duyệt.

Số liệu này cho thấy sự kém hấp dẫn của đào tạo sau đại học. Trên thế giới lấy ví dụ các đại học ở Trung Quốc đã có chuyển biến mạnh trong cơ cấu đào tạo, từ chỗ tỉ lệ đào tạo đại học chiếm đa số, thì nay, nhiều đại học được hỗ trợ từ Dự án 985 của Chính phủ (như Đại học Thanh Hoa, Bắc Kinh, Chiết Giang, Phúc Đán), đào tạo sau đại học đã chiếm trên 50% tổng tuyển sinh hằng năm.

041120240835-z5996945413338_62131b83cd110a90aa4806fa33187c36.jpg
Đại biểu Quốc hội Vương Quốc Thắng (đoàn Quảng Nam). Ảnh: quochoi.vn.

Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, công bố trên các ấn phẩm Scopus đến tháng 7/2024 chỉ với 67 cơ sở giáo dục đại học đã chiếm tới xấp xỉ 84,5% tổng số bài báo của cả nước. Khối giáo dục đại học chiếm khoảng 1/3 tổng số cán bộ nghiên cứu tương đương toàn thời gian với 3/4 số cán bộ nghiên cứu có trình độ tiến sĩ nhưng kinh phí nghiên cứu phát triển chi cho khối đại học chỉ chiếm 6,75% tổng kinh phí nghiên cứu phát triển quốc gia. Số liệu này cho thấy, ngân sách nhà nước dành cho khoa học, công nghệ ở khối đại học là chưa tương xứng với quy mô, năng lực và tiềm năng của đội ngũ này”.

Vị đại biểu cũng nhấn mạnh, trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, vai trò của đại học là vô cùng quan trọng. Vì thế, cần nhanh chóng tháo gỡ các vướng mắc, thúc đẩy mọi nguồn lực nhằm biến đại học trở thành trụ cột trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Từ đó, Đại biểu Vương Quốc Thắng kiến nghị, trước mắt cần tập trung vào những vấn đề sau:

Thứ nhất, đầu tư cho khoa học, công nghệ từ nguồn ngân sách nhà nước cần ưu tiên tối đa cho khu vực tập trung đội ngũ cán bộ nghiên cứu tương đương toàn thời gian, nơi sản sinh ra đội ngũ tri thức và sản phẩm sáng tạo phục vụ cho đất nước. Đầu tư này cần dựa trên quan điểm đầu tư để phát triển nguồn lực, bao gồm nguồn lực con người và nguồn lực sản phẩm sáng tạo. Nghiên cứu sinh tiến sĩ cần được coi là nguồn lực của sáng tạo, cần được phân luồng từ đào tạo bậc đại học và có cơ chế hỗ trợ, chăm sóc từ nguồn ngân sách nhằm thúc đẩy quá trình tiếp thu tinh hoa công nghệ thế giới và sáng tạo công nghệ phục vụ công nghiệp và đời sống.

Thứ hai, xây dựng các cơ chế thuận lợi để thu hút nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước phục vụ cho nghiên cứu khoa học và đào tạo nhân lực chất lượng cao. Nguồn tài chính cho phát triển khoa học, công nghệ tại các doanh nghiệp được quy định tại Nghị định số 95/2014/NĐ-CP ngày 17/10/2014 của Chính phủ “quy định về đầu tư và cơ chế tài chính đối với hoạt động khoa học và công nghệ” là rất lớn, nhưng cần sớm được tháo gỡ cơ chế giải ngân phục vụ cho phát triển khoa học, công nghệ của doanh nghiệp thông qua hợp tác trực tiếp với các cơ sở giáo dục đại học và viện nghiên cứu.

Thứ ba, Chính phủ cần sớm nghiên cứu cơ chế giao tài sản cho các cơ sở giáo dục đại học công lập tự chủ theo mức 1 kèm theo các cơ chế giám sát chặt chẽ làm cơ sở cho việc hạch toán tài chính đầy đủ. Qua đó, nâng cao trách nhiệm của tổ chức quản trị là Hội đồng trường của cơ sở giáo dục đại học, tăng tính chủ động và bền vững về tài chính trong chiến lược phát triển của cơ sở giáo dục đại học.

Thứ tư, cần xây dựng các cơ chế, chính sách thúc đẩy nguồn thu bền vững ngoài học phí cho các cơ sở giáo dục đại học, giảm dần sự phụ thuộc vào học phí. Trong đó, cơ chế thúc đẩy hợp tác công tư, cơ chế hiến tặng, nhằm khơi thông nguồn lực trong đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở vật chất phục vụ đào tạo, nghiên cứu đổi mới sáng tạo và phát triển đại học, cơ chế gây quỹ có đối ứng của Nhà nước hoặc nguồn tài chính hợp pháp của cơ sở giáo dục đại học, thúc đẩy nhanh các cơ chế đặt hàng theo tiêu chí sản phẩm đầu ra.

Thứ năm, xây dựng cơ chế thu hút nhân tài là các tiến sĩ và các nhà khoa học được đào tạo từ các đại học danh tiếng trên thế giới thuộc lĩnh vực ưu tiên phát triển tham gia giảng dạy và nghiên cứu sâu tại các cơ sở giáo dục đại học, các viện nghiên cứu. Đồng thời, xây dựng cơ chế thúc đẩy thực chất hoạt động hợp tác quốc tế về đào tạo và nghiên cứu khoa học tại các cơ sở giáo dục đại học với các đại học hàng đầu khu vực và thế giới.

Kiến nghị bổ sung trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên vào đối tượng áp dụng khi sửa đổi Luật Giáo dục nghề nghiệp

Phát biểu tại phiên họp, Đại biểu Nguyễn Thị Yến Nhi (đoàn Bến Tre) cho rằng, trong thời gian tới, cần tháo gỡ khó khăn cho các trung tâm giáo dục nghề nghiệp -giáo dục thường xuyên trong bối cảnh đất nước ta hướng đến phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đổi mới giáo dục đào tạo và xây dựng xã hội học tập…

“Các địa phương đã tiến hành sáp nhập các trung tâm dạy nghề, trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp công lập cấp huyện thành trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên theo hướng dẫn của Thông tư liên tịch 39/2015/TTLT-BLĐTBXH-BGDĐT-BNV của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ.

Sau sáp nhập, các trung tâm là đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện, thực hiện hai nhiệm vụ chuyên môn là giáo dục nghề nghiệp và giáo dục thường xuyên. Việc sáp nhập các trung tâm này được xem là giải pháp để tập trung nguồn lực, nâng cao hiệu quả đào tạo, dạy nghề, tinh gọn bộ máy. Tuy nhiên, sau nhiều năm triển khai, hiệu quả chưa được như kỳ vọng”, nữ đại biểu nêu rõ.

041120241046-z5997322526985_6ef3ee1682111e56a6429c4dcbc7ff42.jpg
Đại biểu Nguyễn Thị Yến Nhi (đoàn Bến Tre). Ảnh: quochoi.vn.

Đại biểu cho biết, qua kết quả giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội năm 2024 cho thấy, hoạt động của các trung tâm này đang tồn tại nhiều vướng mắc, bất cập liên quan đến vị trí pháp lý, cơ chế quản lý...

Cụ thể, hiện nay việc xác định vị trí pháp lý và quản lý nhà nước đối với các trung tâm này chưa rõ ràng do sự tồn tại song song của hai thông tư cùng quy định về tổ chức và hoạt động. Đó là Thông tư liên tịch số 39 và Thông tư số 01/2023/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến các khó khăn, vướng mắc…

Đại biểu cho biết thêm, theo quy định của Thông tư liên tịch số 39, các trung tâm này là đơn vị sự nghiệp công lập cấp huyện, không thuộc hệ thống giáo dục quốc dân nên chỉ bó hẹp trong khuôn khổ biên chế đơn vị sự nghiệp tỉnh giao cho Ủy ban nhân dân cấp huyện. Đồng thời, do không thuộc hệ thống giáo dục nên không được thụ hưởng các chính sách đầu tư của ngành giáo dục…

Còn Thông tư số 01/2023/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo, lại xác định vị trí pháp lý của các trung tâm này thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. Quy định này cơ bản giải quyết được khó khăn, vướng mắc về vị trí pháp lý và tổ chức hoạt động của các trung tâm. Tuy nhiên, hiện nay các địa phương chưa triển khai thực hiện được Thông tư này. Việc Thông tư liên tịch số 39 chưa được bãi bỏ hoặc công bố hết hiệu lực đã dẫn đến các khó khăn chưa được tháo gỡ.

Thứ hai, thực hiện quyết định của Thủ tướng Chính phủ, các tỉnh xây dựng kế hoạch thực hiện phân luồng học sinh sau trung học cơ sở với chỉ từ tiêu đến năm 2025 30% học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở học tập tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, đào tạo trình độ sơ, trung cấp. Tuy nhiên, thực tế hiện nay học sinh sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở nếu không vào được các trường trung học phổ thông công lập thì chủ yếu vào các trung tâm để tiếp tục học chương trình giáo dục thường xuyên mà rất ít học sinh vừa học văn hóa, vừa học nghề, trong khi cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên thực hiện nhiệm vụ giáo dục thường xuyên của các trung tâm còn rất thiếu, không đáp ứng được yêu cầu.

Thứ ba, việc phân hạng các trung tâm sau khi sáp nhập chưa được hướng dẫn nên chưa có cơ sở để thực hiện chế độ, chính sách cho đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý.

Để góp phần tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong hoạt động của trung tâm giáo dục nghề nghiệp, giáo dục thường xuyên cấp huyện, Đại biểu Nguyễn Thị Yến Nhi có một số kiến nghị như sau.

Thứ nhất, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ phối hợp rà soát, bãi bỏ hoặc công bố hết hiệu lực Thông tư liên tịch số 39.

Thứ hai, Bộ Giáo dục và Đào tạo sửa đổi, bổ sung Thông tư số 01 quy định cụ thể về vị trí pháp lý đối với trung tâm này theo hướng xác định trung tâm giáo dục nghề nghiệp, giáo dục thường xuyên là cơ sở giáo dục thường xuyên thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, trực thuộc Sở Giáo dục và Đào tạo để tháo gỡ những khó khăn về biên chế, chế độ chính sách cho các trung tâm và phù hợp với quy định của Luật Giáo dục, quy định cụ thể việc xếp hạng các trung tâm để cán bộ quản lý giáo viên được hưởng chế độ, chính sách phù hợp.

Thứ ba, Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014 được ban hành trước quy định việc sáp nhập các trung tâm, nên trong đối tượng áp dụng của luật không quy định trung tâm này. Do đó, kiến nghị Quốc hội xem xét bổ sung trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên vào đối tượng áp dụng khi sửa đổi Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014.

Có giải pháp phân luồng triệt để 45% học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông đi đào tạo nghề

Phát biểu tại phiên họp, Đại biểu Nguyễn Văn Mạnh (đoàn Vĩnh Phúc) cũng bày tỏ sự quan tâm về vấn đề lao động, việc làm. Vị cho biết, năm 2024, tình hình lao động việc làm đã có nhiều chuyển biến tích cực, 9 tháng năm 2024, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 52,5 triệu người, tăng hơn 210.000 người so với cùng kỳ năm trước. Lao động có việc làm là 51,4 triệu người, tăng 212.000 người, thu nhập bình quân tháng của người lao động tăng 519 nghìn đồng. Việt Nam vẫn đang trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng với quy mô dân số trong độ tuổi lao động dồi dào và tăng hàng năm. Tỉ lệ lao động Việt Nam có bằng, chứng chỉ đạt 28,1%, tăng 1,3 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tỉ lệ lao động tham gia bảo hiểm xã hội tăng 3,46% và tham gia bảo hiểm thất nghiệp tăng 2,66%. Đặc biệt lần đầu tiên trong vài năm gần đây tốc độ tăng năng suất lao động đạt 5,56% vượt chỉ tiêu đề ra. Tuy nhiên, tình hình lao động việc làm năm 2024 vẫn còn nhiều bất cập.

Đại biểu Nguyễn Văn Mạnh cho rằng, chất lượng cung lao động vẫn còn bất cập, hạn chế, chưa đáp ứng cho cầu lao động của một thị trường lao động hiện đại, linh hoạt, bền vững và hội nhập, chưa có số liệu lao động đi xuất khẩu lao động năm 2024. Thị trường lao động chưa có sự cải thiện nhiều về chất lượng lao động khi số lao động phi chính thức làm các công việc bấp bênh, thiếu tính ổn định vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Đồng thời tỷ lệ lao động thất nghiệp còn cao. Công tác định hướng nghề nghiệp phân luồng học sinh theo quyết định Thủ tướng Chính phủ chưa đạt mục tiêu đề ra...

041120240813-z5996992104241_c048d2d1e9b17293eb40496d73afa0d9.jpg
Đại biểu Nguyễn Văn Mạnh (đoàn Vĩnh Phúc). Ảnh: quochoi.vn.

Từ thực tiễn trên, Đại biểu Nguyễn Văn Mạnh kiến nghị Quốc hội và Chính phủ một số giải pháp:

Một là, nâng cao năng lực phân tích, dự báo, chú trọng tháo gỡ khó khăn trong tiếp cận tín dụng, tập trung cho sản xuất, kinh doanh và các lĩnh vực ưu tiên, có kế hoạch, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, định hướng tìm kiếm đơn hàng từ các thị trường để giải quyết việc làm cho lao động.

Hai là, tăng cường thông tin, tuyên truyền về các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về các chính sách hỗ trợ đào tạo nghề nghiệp, hỗ trợ tạo việc làm cho thanh niên; đẩy mạnh đào tạo nghề nghiệp đáp ứng nhu cầu xã hội, gắn đào tạo nghề nghiệp với nhu cầu việc làm của doanh nghiệp; chú trọng xã hội hóa công tác dạy nghề, khuyến khích doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề; đổi mới nội dung, chương trình đào tạo để đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp.

Ba là, đề nghị Chính phủ tổ chức sơ kết đánh giá việc thực hiện Quyết định 522/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông giai đoạn 2018-2025” và có giải pháp phân luồng triệt để 45% học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông đi đào tạo nghề.

Bởi vì, sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông, các em được phát triển toàn diện về thể chất, chương trình giáo dục phổ thông và hoàn thiện về tư duy, nhận thức, việc tham gia đào tạo nghề sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, cải thiện chất lượng và năng suất lao động. Đồng thời, giảm tỉ lệ phân luồng sau trung học cơ sở đi học nghề thay vì mục tiêu 40% như hiện nay để tạo điều kiện cho các em được bình đẳng về quyền được giáo dục và học tập trong nhà trường để phát triển toàn diện tư duy, thể chất để tránh gây áp lực cho xã hội và giảm các tệ nạn xã hội do các em gây ra vì không được giáo dục đầy đủ trong môi trường sư phạm.

Bốn là, tăng cường hỗ trợ tín dụng cho thanh niên khởi nghiệp để tạo thêm việc làm, hoàn thiện việc thực hiện chính sách hỗ trợ tín dụng cho thanh niên để tìm và tự tạo việc làm…

Cung cấp các chương trình đào tạo chất lượng cao từ cấp đại học đến sau đại học

Ngoài ra, tại phiên thảo luận, cũng có một số ý kiến khác liên quan đến lĩnh vực giáo dục và đào tạo.

Đại biểu Trần Thị Hồng Thanh (đoàn Ninh Bình) bày tỏ: “Mặc dù hiện nay chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam đã có sự cải thiện khá rõ nét. Tuy nhiên nguồn nhân lực có chất lượng cao vẫn đang là thách thức cho tiến trình đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng phát triển nền kinh tế tri thức, kinh tế số, tăng cường đổi mới sáng tạo của nước ta hiện nay. Do vậy, đề nghị Chính phủ tập trung chỉ đạo phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào một số giải pháp.

Trong đó, tập trung các giải pháp về giáo dục và đào tạo để góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực như quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học thuộc lĩnh vực kỹ thuật công nghệ, triển khai các hoạt động đào tạo kiến thức, kỹ năng về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong các trường phổ thông.

Mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng đào tạo của các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và các trung tâm dạy nghề trên phạm vi cả nước.

Xây dựng chiến lược giáo dục và đào tạo phục vụ trực tiếp cho sự phát triển của nền kinh tế hiện đại, cung cấp các chương trình đào tạo chất lượng cao từ cấp đại học đến sau đại học về các lĩnh vực liên quan đến khoa học môi trường, công nghệ năng lượng tái tạo, quản lý tài nguyên thiên nhiên và kinh tế xanh”.

041120241024-z5997457611383_b282465c301b9b8a5443a6c4aa141081.jpg
Đại biểu Trần Thị Hồng Thanh (đoàn Ninh Bình). Ảnh: quochoi.vn.

Chia sẻ tại hội trường, Đại biểu Lưu Bá Mạc (đoàn Lạng Sơn) cũng kiến nghị với Bộ Giáo dục và Đào tạo xem xét, phối hợp với Bộ Tài chính nghiên cứu, bổ sung nội dung về định mức chi thừa giờ cho giáo viên tham gia dạy lớp xóa mù chữ do hiện nay không có quy định tại Thông tư số 55/2023/TT-BTC của Bộ Tài chính, để từ đó thống nhất được nội dung tại Thông tư liên tịch số 07/2013/TTLT-BGDĐT-BNV-BTC của liên Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện chế độ chi trả lương dạy thêm giờ đối với nhà giáo trong các đơn vị sự nghiệp công lập, từ đó làm cơ sở cho các địa phương thuận lợi trong quá trình thực hiện.

Mộc Hương