Chính phủ không thể "nai lưng" trả nợ thay doanh nghiệp

12/03/2017 08:05
Mai Anh
(GDVN) - Theo TS.Cao Sỹ Kiêm, cần có tiêu chí trong vấn đề xét bảo lãnh nợ Chính phủ để tránh việc Chính phủ "nai lưng" trả nợ thay doanh nghiệp yếu kém.

Dự án kém hiệu quả mới cần bảo lãnh

TS.Cao Sỹ Kiêm - nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho biết, nợ bảo lãnh Chính phủ không chỉ có Việt Nam mà nhìn chung nước nào cũng áp dụng. 

“Nhưng tùy thuộc vào trình độ phát triển, tín nhiệm của từng quốc gia cũng như uy tín thị trường, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp mỗi quốc gia sẽ quyết định việc nợ bảo lãnh Chính phủ nhiều hay ít. 

Với những nước có nền kinh tế phát triển, doanh nghiệp làm ăn bền vững, hiệu quả thì vấn đề bảo lãnh hạn chế hơn, không cần nhiều”, TS.Cao sỹ Kiêm cho biết.

TS.Cao Sỹ Kiêm - nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - ảnh: H.Lực
TS.Cao Sỹ Kiêm - nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - ảnh: H.Lực

Trong khi ở Việt Nam, TS.Kiêm nhận định, nhiều doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém nên không đủ điều kiện tín nhiệm vay vốn của các tổ chức tài chính nước ngoài. Vì vậy, họ yêu cầu các doanh nghiệp muốn vay vốn thực hiện dự án phải có cơ quan có khả năng trả nợ bảo lãnh.

Thường sẽ có ba cơ quan gồm Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước hoặc Chính phủ trực tiếp bảo lãnh các khoản nợ doanh nghiệp Việt Nam.

Cả ba cơ quan này khi bảo lãnh nợ có nghĩa Nhà nước bảo lãnh, trong trường hợp doanh nghiệp không trả được nợ thì những cơ quan trên phải có trách nhiệm trả nợ.

Điều đó lý giải tại sao nợ bảo lãnh Chính phủ hiện đang ở mức 10,2% GDP, trong đó phần lớn là những khoản bảo lãnh dành cho doanh nghiệp nhà nước như Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV), Tổng công ty Hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines)… 

Chính phủ không thể "nai lưng" trả nợ thay doanh nghiệp ảnh 2

Ông Bùi Kiến Thành: "Vòng tròn thua lỗ bị đẩy về Chính phủ"

Chính phủ không thể "nai lưng" trả nợ thay doanh nghiệp ảnh 3

Nhóm lợi ích hốt tiền từ dự án "bánh vẽ", nhà nước và nhân dân cùng gánh hậu quả

TS.Kiêm khẳng định, khi doanh nghiệp nhà nước không trả được nợ thì Chính phủ phải trả nợ thay, tiền trả nợ ấy lấy từ ngân sách, lấy từ tiền thuế đóng góp của dân để trả nợ.

Nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho biết, sở dĩ Chính phủ phải chấp nhận bảo lãnh nợ vì mặt lợi của bảo lãnh sẽ giúp doanh nghiệp có nguồn vốn lớn để phát triển, giúp có nguồn vốn lớn để dự án thực hiện nhanh.

“Khi có bảo lãnh Chính phủ các nhà đầu tư nước ngoài rất tin tưởng, yên tâm đổ tiền vào đầu tư.

Còn về phía doanh nghiệp đi vay, đôi khi nhờ bảo lãnh vay của Chính phủ mà lãi suất cho vay cũng mềm mại hơn”, TS.Kiêm cho biết.

Vì thế sẽ rất lợi cho nền kinh tế nếu các khoản vay bảo lãnh nợ đến được đúng dự án đang cần, đến được dự án hiệu quả bởi nguồn vốn đó sẽ giúp các dự án hoàn thành sớm và mang lại hiệu quả kinh tế.

Nguyên Thống đốc Cao Sỹ Kiêm khẳng định: “Bảo lãnh Chính phủ rất cần thiết với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam, với những dự án cần vốn, bảo lãnh nợ đúng dự án, đúng đối tượng sẽ giúp doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh, thúc đẩy phát triển của nền kinh tế”.

Đồng thời, ông Kiêm cũng chỉ ra mặt bất lợi của bảo lãnh nợ Chính phủ là do liên quan đến chi ngân sách nên sẽ khiến nợ công trước sau cũng tăng lên. 

“Nguy hiểm hơn với khi khoản vay bảo lãnh không hiệu quả kinh tế sẽ làm ảnh hưởng đến tín nhiệm của Chính phủ Việt Nam, ảnh hưởng đến tín nhiệm chung của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam và ảnh hưởng các khoản vay sau”, TS.Kiêm nói.

Siết chặt bảo lãnh 

Một thực tế diễn ra nhiều dự án đầu tư có sử dụng nguồn vốn vay bão lãnh Chính phủ là việc giải ngân. Cụ thể, khi dự án có Chính phủ bảo lãnh vấn đề giải ngân khoản vay của các tổ chức tín dụng nước ngoài rất nhanh. Giải ngân nhanh nhưng không quản lý dẫn đến không hiệu quả.

Điển hình như dự án Nhà máy giấy Phương Nam từ mức đầu tư 1.487 tỷ đồng năm 2003 đã tăng lên 2.286 tỷ đồng vào năm 207 nhưng dự án vẫn rơi vào cảnh thiếu vốn. Đến cuối năm 2012, sau khi được Bộ Công thương thẩm định, dự án Nhà máy giấy Phương Nam nâng mức đầu tư lên 3.409 tỉ đồng. 

Trong đó, số vốn đã giải ngân là 2.948 tỉ đồng, bao gồm vốn vay trong nước 1.952 tỉ đồng và vốn vay nước ngoài là 968 tỉ đồng - do Bộ Tài chính bảo lãnh. Như vậy dù giải ngân đến hơn 86% vốn đầu tư nhưng cuối cùng dự án phải dừng lại trong khi chưa sản xuất được sản phẩm giấy nào.

Nhà máy gang thép Thái Nguyên - ảnh Tạp chí kinh tế dự báo.
Nhà máy gang thép Thái Nguyên - ảnh Tạp chí kinh tế dự báo.

Tương tự là dự án Nhà máy gang thép Thái Nguyên (TISCO) giai đoạn 2, tháng 7/2007, TISCO ký hợp đồng tổng thầu với Tập đoàn Xây lắp luyện kim Trung Quốc (MCC) xây dựng Nhà máy Gang thép Thái Nguyên giai đoạn hai công suất 0,5 triệu tấn/năm, tổng vốn 3.843 tỉ đồng.

Ký hợp đồng xong, nhà thầu được TISCO tạm ứng trên 35 triệu USD trong tổng giá trị hợp đồng khoảng 160,8 triệu USD. Tuy nhiên chỉ sau một năm, vào tháng 8/2008 MCC yêu cầu tăng giá hợp đồng thêm hơn 298 triệu USD.

Chủ đầu tư sau đó báo cáo lên cấp trên và được đồng ý điều chỉnh tổng mức đầu tư lên 8.104 tỉ đồng, tức hơn gấp đôi so với tính toán ban đầu.

Không những dự án bị đội vốn, TISCO đã thanh toán cho MCC 93% giá trị thiết bị nhưng nhà thầu Trung Quốc đã rút về nước. Tính đến thời điểm hiện tại hơn 4.500 tỷ đồng đã được giải ngân nhưng dự án đến nay vẫn chỉ là bãi cỏ dại và khối sắt hoen gỉ.

Theo TS. Kiêm hấu hết dự án sử dụng nguồn vốn vay nước người sẽ giải ngân rất nhanh khi có bảo lãnh của Chính phủ nên tổ chức tín dụng nước ngoài yên tâm và chuyển tiền rất nhanh. 

“Đáng nhẽ thông thường họ sẽ điều tra thẩm định việc triển khai dự an nhưng do Chính phủ Việt Nam bảo lãnh nên tin tưởng và sẵn sàng bỏ qua. Cộng với việc quản lý yếu kém dẫn đến nguồn tiền được giải ngân nhiều nhưng sử dụng không hiệu quả”, TS.Kiêm nhận xét.

Theo ông Cao Sỹ Kiêm, thời gian tới mỗi dự án đầu tư mới của doanh nghiệp nhà nước được đưa ra yêu cầu đầu tiên phải tự thu xếp nguồn vốn không để Chính phủ đứng ra bảo lãnh.

“Trong trường hợp dự án lớn quá, phải thực hiện trong thời gian ngắn mà ngân sách chưa có để đáp ứng cần bảo lãnh lấy tiền thực hiện dự án thì phải kiểm soát chặt chẽ vấn đề sử dụng nguồn vốn”, ông Kiêm nói.

Theo ông Kiêm, trong 12 dự án yếu kém của ngành Công Thương nêu ra không ít các dự án đang được Chính phủ bảo lãnh nợ để đầu tư. Từ đó đặt ra vấn đề trách nhiệm cơ quan quản lý nhà nước khi phê duyệt dự án này.

“Đây là các dự án có hiệu quả kinh tế và tính cạnh tranh thấp, trong khi cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm quản lý nắm không vững, dễ dãi trong bảo lãnh.

Khi dự án triển khai không giám sát dẫn đến dự án chậm tiến độ, hoặc hoàn thành nhưng hoạt động thua lỗ không hiệu quả, không trả nược nợ cho nước ngoài”, TS.Kiêm đánh giá.

Theo ông Kiêm, thời gian tới Chính phủ cần một mặt quản lý chặt khâu lập dự án đầu tư. Dự án mới phải tính toán từ hiệu quả kinh tế cũng như điều kiện vốn của doanh nghiệp.  

Trong bảo lãnh nợ phải có tiêu chí, quy định trách nhiệm cá nhân lãnh đạo doanh nghiệp, trách nhiệm lãnh đạo cơ quan quản lý nhà nước phụ trách doanh nghiệp được bảo lãnh nợ.

Nếu doanh nghiệp có dự án được bảo lãnh không có khả năng trả nợ phải xử lý người đứng đầu doanh nghiệp, xử lý lãnh đạo cơ quan quản lý nhà nước phụ trách doanh nghiệp.

Mai Anh