Kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục vươn lên mạnh mẽ năm 2020

25/01/2020 06:19
TS Nguyễn Minh Phong
(GDVN) - Năm 2019 là năm thứ 2 liên tiếp cả nước đạt toàn bộ 12 chỉ tiêu kế hoạch chủ yếu, trong đó 5 chỉ tiêu vượt kế hoạch, với ước GDP cả năm tăng 7,02%.

LTS: Báo điện tử Giáo dục Việt Nam trân trọng gửi tới quý độc giả bài viết của chuyên gia kinh tế - Tiến sĩ Nguyễn Minh Phong tổng kết năm 2019 với nhiều thành công cả về kinh tế và an sinh xã hội của Việt Nam. Đó là tiền đề hết sức quan trọng để kinh tế Việt Nam bứt tốc trong năm 2020.

Sự ổn định được thế giới đánh giá cao

Việt Nam thuộc tốp có mức GDP năm 2019 tăng trưởng cao dẫn đầu khu vực và thế giới, được coi là quốc gia có nền kinh tế ổn định và tăng trưởng nhanh, thế và lực không ngừng được củng cố; uy tín quốc tế được nâng lên, bất chấp những khó khăn chung về kinh tế thế giới trong năm 2019.

Thành quả này là cộng hưởng tích cực sự kịp thời và hiệu quả trong chỉ đạo của Đảng, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ với sự nỗ lực của các cấp, các ngành, các địa phương và cộng đồng doanh nghiệp cả nước trong thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.

Môi trường kinh doanh tiếp tục được cải thiện: Việt Nam được xếp thứ 8 trong số các nền kinh tế tốt nhất thế giới để đầu tư năm 2019, tăng 15 bậc so với năm 2018; năng lực cạnh tranh của Việt Nam được Diễn đàn Kinh tế Thế giới xếp thứ 67/141 quốc gia, vùng lãnh thổ, tăng 10 bậc so với năm 2018; Chỉ số năng lực cạnh tranh ngành du lịch cũng tăng 2 bậc so với năm trước; Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) của Việt Nam tăng 3 bậc, xếp thứ 42/129 quốc gia, vùng lãnh thổ; đứng thứ nhất trong nhóm 26 quốc gia thu nhập trung bình thấp và thứ 3 trong ASEAN.

Chỉ số xếp hạng về an toàn thông tin mạng của Việt Nam tăng 50 bậc, xếp thứ 50/175 quốc gia, vùng lãnh thổ. Theo Báo cáo môi trường kinh doanh – Doing business 2020 (DB 2020) toàn cầu vừa được Ngân hàng Thế giới công bố, chỉ số nộp thuế (Paying Taxes, với các tiêu chí như: số giờ nộp thuế; số lần nộp thuế trong năm; tổng mức thuế suất trên lợi nhuận; chỉ số sau kê khai (hoàn thuế giá trị gia tăng, thanh/kiểm tra thuế thu nhập doanh nghiệp) đã tăng 22 bậc, đưa Việt Nam từ vị trí thứ 131 lên xếp thứ 109 trong tổng số 190 quốc gia được đánh giá.

Nhờ kết quả này, ngành thuế đã vượt chỉ tiêu của Chính phủ đã đề ra tại Nghị quyết số 02/NQ-CP về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2019 và định hướng đến năm 2021.

Theo đó, mục tiêu chỉ số nộp thuế năm 2019 tăng lên 7-10 bậc, tiệm cận mục tiêu đến năm 2021 lên 30-40 bậc. Theo báo cáo DB 2020 của Ngân hàng Thế giới, phần lớn các chỉ số này đều có sự cải thiện so với năm trước đó và được ghi nhận nhờ những nỗ lực của Việt Nam.

Cụ thể, thời gian nộp thuế giảm 114 giờ (từ 498 xuống 384 giờ); trong đó, 94 giờ giảm là do cải cách, đơn giản hóa tại các thủ tục về khai thuế giá trị gia tăng và 20 giờ giảm là do những cải cách, đơn giản hóa các thủ tục về nộp và quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp. Số lần nộp thuế giảm từ 10 lần năm 2019 xuống còn 6 lần năm 2020. Tổng mức thuế suất (tỷ lệ tổng thuế và đóng góp) giảm 0,2%, từ mức 37,8% năm 2019 xuống còn 37,6% năm 2020.

Thời gian doanh nghiệp Việt Nam chuẩn bị nộp thuế giá trị gia tăng, bao gồm lập bảng kê hóa đơn hàng hóa, dịch vụ mua vào, bán ra theo Tờ khai thuế giá trị gia tăng đã giảm khoảng 90 giờ (từ 212 còn 122 giờ). Thời gian kê khai thuế thu nhập doanh nghiệp giảm từ 5 lần xuống 1 lần.

Năm 2019 là năm thứ 2 liên tiếp cả nước đạt toàn bộ 12 chỉ tiêu kế hoạch chủ yếu, trong đó 5 chỉ tiêu vượt kế hoạch, với ước GDP cả năm tăng 7,02%. ảnh minh họa: TTXVN
Năm 2019 là năm thứ 2 liên tiếp cả nước đạt toàn bộ 12 chỉ tiêu kế hoạch chủ yếu, trong đó 5 chỉ tiêu vượt kế hoạch, với ước GDP cả năm tăng 7,02%. ảnh minh họa: TTXVN

Số lượng doanh nghiệp thành lập mới và quay lại hoạt động tiếp tục được cải thiện: Đây là 2 chỉ số đo lường sức khỏe môi trường kinh doanh và tạo động lực tăng trưởng chính đến nền kinh tế đã ghi nhận mức kỷ lục mới: Tính chung năm 2019, cả nước có 138,1 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 1.730,2 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký là 1.254,4 nghìn lao động, tăng 5,2% về số doanh nghiệp, tăng 17,1% về vốn đăng ký và tăng 13,3% về số lao động so với năm trước; vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới đạt 12,5 tỷ đồng, tăng 11,2% so với năm trước.

Nếu tính cả 2.273 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của 40,1 nghìn doanh nghiệp thay đổi tăng vốn thì tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong năm 2019 là 4.003,2 nghìn tỷ đồng.

Bên cạnh đó, còn có 39,4 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 15,9% so với năm 2018, nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong năm 2019 lên 177,5 nghìn doanh nghiệp, trung bình mỗi tháng có gần 14,8 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động.

Bên cạnh đó, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn năm 2019 là 28,7 nghìn doanh nghiệp, tăng 5,9% so với năm trước; số doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể là 43,7 nghìn doanh nghiệp, tăng 41,7%, trong đó có 17,7 nghìn doanh nghiệp bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp theo chương trình chuẩn hóa dữ liệu từ năm 2018; số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể là 16,8 nghìn doanh nghiệp, tăng 3,2%. Điều này cũng cho thấy “sức khỏe” tốt hơn của các doanh ghiệp mới ra nhập thị trường. Đồng thời, cả nước còn gần 24 nghìn hợp tác xã kiểu mới với đa số hoạt động hiệu quả.

Sự lạc quan kinh doanh và tích cực đầu tư được khẳng định, với kết quả 81,7% doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo được Tổng cục Thống kê khảo sát khẳng định kinh doanh của mình trong quý III/2019 là ổn định và tich cực, tốt hơn quý II/2019; 87,9% cho rằng dự kiến quý IV/2019 xu hướng sẽ tốt lên hoặc ổn định so với quý III/2019.

Tạo đà mạnh mẽ cho năm 2020

Động lực và chất lượng tăng trưởng có bước phát triển mới, với tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện theo giá hiện hành năm 2019 tăng 10,2% so với năm trước và bằng 33,9% GDP (quý IV đạt 669,8 nghìn tỷ đồng, tăng 10,4%). Trong đó khu vực kinh tế ngoài Nhà nước đạt 942,5 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn đầu tư (46%) và đạt tốc độ tăng vốn cao nhất 17,3% so với năm trước; vốn khu vực Nhà nước đạt 634,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 31% và tăng 2,6%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 469,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 23% và tăng 7,9%. 

Thủ tướng: Kinh tế tư nhân là động lực quan trọng để phát triển đất nước
Thủ tướng: Kinh tế tư nhân là động lực quan trọng để phát triển đất nước

Đầu tư tư nhân với nhiều dự án lớn được triển khai mạnh mẽ, theo đúng định hướng tăng cường thu hút các nguồn lực xã hội. Năng suất lao động tăng 5,9%; đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đạt 42,7%.

Tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tính đến 20/12/2019 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 38 tỷ USD, tăng 7,2% so với năm 2018 và cao nhất trong 10 năm trở lại đây. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm 2019 ước tính đạt 20,4 tỷ USD, tăng 6,7% so với năm trước và cao nhất từ trước đến nay.

Mô hình tăng trưởng chuyển dịch tích cực, giảm dần phụ thuộc vào khai khoáng và tăng tín dụng; đóng góp của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo ngày càng tăng. Khoa học công nghệ được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực; hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia phát triển mạnh.

Nhiều thành tựu được ứng dụng nhanh chóng và rộng rãi, trong đó có những lĩnh vực tiệm cận và đạt trình độ khu vực, quốc tế. Hệ thống bảo hộ, thực thi quyền sở hữu trí tuệ tiếp tục được hoàn thiện. Các quỹ phát triển khoa học công nghệ phát huy hiệu quả; có hơn 3.000 doanh nghiệp khởi nghiệp và một số quỹ đầu tư mạo hiểm..

Nhiều địa phương nỗ lực phấn đấu vươn lên, thu hút mạnh các nguồn lực, đạt tốc độ tăng trưởng cao, đóng góp quan trọng cho kết quả chung của cả nước.

Thị trường tài chính và nền tảng kinh tế vĩ mô được duy trì ổn định vững chắc trong điều kiện thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế biến động mạnh. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân năm 2019 tăng 2,79% so với bình quân năm 2018, dưới mục tiêu Quốc hội đề ra, đây cũng là mức tăng bình quân năm thấp nhất trong 3 năm qua dưới 3%, thấp hơn mục tiêu đề ra. Thị trường tài chính, tiền tệ và tỷ giá được điều hành chủ động, linh hoạt và duy trì ổn định phù hợp; dự trữ ngoại hối đạt khoảng 73 tỷ USD. Hệ số tín nhiệm quốc gia được nâng hạng từ BB- lên BB với triển vọng “tích cực”.  

Năm 2019 tổng thu ngân sách nhà nước vượt 3,3% dự toán và là năm thứ hai liên tiếp thu ngân sách trung ương vượt dự toán. Các chỉ tiêu tổng thu, huy động vào ngân sách, thu nội địa... đạt mục tiêu kế hoạch 5 năm. Bội chi được kiểm soát cả số tuyệt đối và tương đối, với mức bội chi năm 2019 ngân sách nhà nước khoảng 3,4% GDP và năm 2020 ước 3,44% GDP, vượt mục tiêu dưới 3,5% GDP.

Tỷ trọng chi đầu tư phát triển tăng, đạt 26,6%. Nhờ kiểm soát tốt, nợ công đã giảm một nửa so với giai đoạn trước và tăng thấp hơn tốc độ tăng GDP danh nghĩa (năm 2019, nợ công giảm còn 56,1% GDP  so với mức 64,6% GDP năm 2016).

Xuất siêu hàng hóa 9,9 tỷ USD và là năm thứ tư liên tiếp xuất siêu thương mại hàng hóa. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa năm 2019 lần đầu tiên cán mốc 500 tỷ USD, đạt 516,96 tỷ USD, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 263,45 tỷ USD, tăng 8,1% so với năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước có tốc độ tăng cao 17,7%, cao hơn tốc độ tăng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (4,2%).

Trong năm 2019 có 32 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 92,9% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 6 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 63,4%). Công tác quản lý thị trường được tăng cường, với việc xử lý nghiêm nhiều vụ việc buôn lậu, gian lận thương mại.

Nền kinh tế tiếp tục cơ cấu lại nền đúng hướng và thực chất hơn; Các ngành, lĩnh vực chủ yếu vẫn phát triển ổn định, tích cực trong bối cảnh khó khăn. Sản xuất công nghiệp tăng mạnh; trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục giữ vai trò động lực tăng trưởng kinh tế, với mức tăng trưởng đạt 11,29%. Bảo đảm an ninh năng lượng; phát triển mạnh các dự án năng lượng tái tạo.

Khu vực nông nghiệp phát triển ổn định; xây dựng và đưa vào hoạt động nhiều nhà máy chế biến lớn; xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt trên 41 tỷ USD. Xây dựng nông thôn mới đạt kết quả vượt bậc, đến cuối năm 2019 ước có khoảng 53 - 54% số xã và 110 huyện đạt chuẩn, hoàn thành trước thời hạn gần 2 năm.

Khu vực dịch vụ duy trì đà tăng khá cao; Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2019 ước tính đạt 4.940,4 nghìn tỷ đồng, tăng 11,8% so với năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 9,2% (năm 2018 tăng 8,4%); thương mại điện tử tăng mạnh. Khách quốc tế ước cả năm đạt 18 triệu lượt, tăng 16,1%.

Cơ cấu lại các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu đạt kết quả tích cực; tỷ lệ nợ xấu nội bảng còn 1,91%; bảo đảm an toàn hệ thống. Thực hiện nhiều giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước; tập trung xử lý các dự án, doanh nghiệp thua lỗ, thất thoát lớn, trong đó có dự án bước đầu có lãi và một số dự án từng bước khắc phục khó khăn, vận hành trở lại.

Chất lượng nguồn nhân lực tiếp tục được cải thiện cùng với sự phát triển kết cấu hạ tầng, đô thị và thúc đẩy liên kết vùng.  Xếp hạng đại học tăng 12 bậc, từ hạng 80 lên 68. Quy mô nguồn nhân lực ước đạt 55,8 triệu lao động; tỷ lệ lao động qua đào tạo cả năm khoảng 61 - 62%, trong đó tỷ lệ lao động có bằng cấp, chứng chỉ đạt 24%; tạo thêm 1,62 triệu việc làm; Tỷ lệ thất nghiệp chung cả nước năm 2019 là 1,98% ( thành thị là 2,93%và nông thôn là 1,51%). Tiếp tục mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội. Hệ thống đô thị phát triển nhanh, tỷ lệ đô thị hóa ước đạt 39,2%.

Các lĩnh vực văn hóa, xã hội được chú trọng, cơ bản gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế, chất lượng cuộc sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện rõ rệt. 

Chất lượng dịch vụ y tế tiếp tục được nâng lên; đạt 8,6 bác sỹ, 27,5 giường bệnh trên 1 vạn dân và tỷ lệ tham gia Bảo hiểm y tế đạt 89,3%, vượt mục tiêu đề ra. Làm tốt công tác y tế dự phòng; chú trọng vệ sinh an toàn thực phẩm.

Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm  1 - 1,5% (còn khoảng 3,73 - 4,23%); trong đó các huyện nghèo giảm trên 4%. Thành tích giảm nghèo của Việt Nam tiếp tục là một điểm sáng, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Đặc biệt, theo Báo cáo Chỉ số đói nghèo toàn cầu (GHI) 2019 của Cơ quan viện trợ Concern Worldwide từ Ailen và tổ chức Welt Hunger Hilfe của Đức, Việt Nam đứng thứ 62, tăng 2 bậc so với vị trí thứ 64 trên tổng số 119 nền kinh tế trong bảng xếp hạng toàn cầu.

Với vị trí năm nay, Việt Nam tốt hơn một số nước láng giềng Đông Nam Á như Myanmar, Indonesia, Philippines, Campuchia và Lào. Điểm GHI được tính toán dựa trên 4 chỉ số, bao gồm suy dinh dưỡng, gầy so với chiều cao, thấp còi ở trẻ em và trẻ em tử vong.

Cụ thể, chỉ số GHI của Việt Nam đã giảm từ 28,3 trong năm 2000 xuống còn 15,3 trong năm 2019. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi gầy so với chiều cao đã giảm từ 9% năm 2000 xuống còn 6,4% trong năm nay và tỷ lệ thấp còi ở trẻ em đã giảm gần một nửa từ 42,9% năm 2000 xuống 24,6% năm 2019. Chính phủ Việt Nam đã thực hiện nhiều biện pháp để giảm suy dinh dưỡng và xóa đói nghèo. Năm ngoái, Chính phủ đã phát động chương trình "Thanh toán nạn đói" nhằm giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng và tăng trưởng chậm thông qua cải thiện dinh dưỡng và sản xuất thực phẩm bền vững.

Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) gần đây đã kêu gọi Chính phủ Việt Nam nỗ lực hơn nữa tài trợ cho các chương trình liên quan đến dinh dưỡng, xây dựng các kế hoạch đa ngành để giải quyết các yếu tố cơ bản của suy dinh dưỡng và sớm thực hiện can thiệp.

TS Nguyễn Minh Phong