Than tăng giá, hạ phẩm cấp: Ngành xi măng điêu đứng

23/05/2012 12:34
Hà Nhi
(GDVN) - Theo ông Nguyễn Văn Thiện, Chủ tịch Hiệp hội Xi măng Việt Nam: Than tăng giá, giảm chất lượng là một trong những nguyên nhân lớn tạo khó khăn cho ngành xi măng.
Từ giữa năm 2011 đến nay, các doanh nghiệp (DN) xi măng Việt Nam đã đối mặt với hàng loạt khó khăn như tiêu thụ giảm, tồn kho tăng cao, lãi suất cao và cạnh tranh khốc liệt... Nhiều DN xi măng đang bên bờ vực phá sản. Theo thống kê của Hiệp hội Xi măng Việt Nam, 5 tháng đầu năm 2012 sản xuất xi măng đạt khoảng 19.000 triệu tấn, giảm 16,80% so với cùng kỳ năm 2011 (22,200 triệu tấn), tiêu thụ xi măng đạt khoảng 19,000 triệu tấn giảm 7,8% (20,500 triệu tấn) so với cùng kỳ năm 2011. Trong buổi gặp mặt giữa các doanh nghiệp ngành xi măng để tìm cách tháo gỡ khó khăn, đại diện Tổng Công ty xi măng Việt Nam (VICEM) cũng than thở: Hơn một năm trước đây, Vicem chiếm tới 36% thị phần trong nước, tuy nhiên, tới tháng 4 – tháng 5 năm nay, con số này giảm xuống dưới 30%, không giữ được vai trò dẫn dắt thị trường. Tốc độ tiêu thụ trong 5 tháng đầu năm 2012 giảm tới xấp xỉ 20% so với cùng kỳ năm trước.
Trong buổi gặp mặt giữa các doanh nghiệp ngành xi măng để tìm cách tháo gỡ khó khăn, ông Nguyễn Văn Thiện, Chủ tịch Hiệp hội Xi măng Việt Nam đã cho rằng: Than tăng giá, giảm chất lượng là một trong những nguyên nhân tạo khó khăn cho ngành xi măng. (Ảnh: Hà Nhi)
Trong buổi gặp mặt giữa các doanh nghiệp ngành xi măng để tìm cách tháo gỡ khó khăn, ông Nguyễn Văn Thiện, Chủ tịch Hiệp hội Xi măng Việt Nam đã cho rằng: Than tăng giá, giảm chất lượng là một trong những nguyên nhân tạo khó khăn cho ngành xi măng. (Ảnh: Hà Nhi)
Nguyên nhân gây nên tình trạng sản xuất và tiêu thụ suy giảm này, theo ông Nguyễn Văn Thiện - Chủ tịch Hiệp hội Xi măng Việt Nam, là do thực hiện chính sách kiềm chế lạm phát, thắt chặt tiền tệ, giảm đầu tư công,… do thị trường bất động sản đóng băng, do sức mua của nền kinh tế giảm. Hơn nữa, ngành xi măng những năm gần đây lại đầu tư quá mạnh và ồ ạt nên công suất thiết kế và năng lực sản xuất tăng vượt cả nhu cầu, dẫn tới tình trạng thừa xi măng. Từ đầu năm 2012, toàn ngành xi măng có công suất thiết kế khoảng 70 triệu tấn, sản lượng dự kiến đạt từ 60 – 62 triệu tấn, trong khi đó nhu cầu tiêu thụ nội địa năm 2012 dự kiến khoảng 47 – 48 triệu tấn, phấn đấu xuất khẩu 7 – 8 triệu tấn, dẫn tới dư thừa khoảng 6 triệu tấn. Ngoài ra, giá nguyên liệu đầu vào liên tục tăng nhanh cũng gây những khó khăn trong sản xuất cũng như tiêu thụ ngành xi măng. Cụ thể, than từ năm 2011 đến nay đã tăng 170%, điện tăng 19%, dầu tăng 40%. Đặc biệt, than là nguồn năng lượng quan trọng đối với sản xuất xi măng nhưng từ năm 2011 đến nay, theo ông Thiện, than đã gây nhiều khó khăn cho xi măng. Đặc biệt, ông Thiện nhấn mạnh: Than không chỉ tăng giá, lại còn hạ phẩm cấp, chất lượng than (tăng độ tro, độ ẩm, hạ nhiệt lượng,…), như vậy tăng giá kép. “Tại khu vực Tuyên Quang, Thái Nguyên, các nhà máy xi măng thuộc Vinacomin, TKV quản lý được cung cấp than với những điều kiện ưu ái hơn (nhận than tại mỏ gần nhà máy, được thanh toán chậm,…) so với các nhà máy xi măng ngoài ngành than, từ đó, tạo sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các nhà máy xi măng trong cùng khu vực. Ở những khu vực khác, điều kiện thanh toán ngặt nghèo, có những lúc TKV ký hợp đồng cung cấp không đủ than cũng gây khó khăn cho các nhà máy xi măng” – ông Thiện nói.
Làm thế nào để DN xi măng thoát khỏi bờ vực thẳm?

Cùng với việc tiếp cận nguồn vốn khó khăn, phần lớn các doanh nghiệp xi măng từ đầu năm 2012 đến nay đều thua lỗ, sản phẩm tồn đọng lớn, một số nhà máy ngừng một phần dây chuyền sản xuất, nguy cơ phá sản của một số doanh nghiệp là hiện hữu – theo đánh giá của ông Nguyễn Văn Thiện, Chủ tịch Hiệp hội Xi măng Việt Nam.

Vì vậy, không ít các doanh nghiệp xi măng đã cùng ngồi lại với nhau để tìm hướng đi, thoát khỏi vực thẳm trong thời gian tới. Đồng nhất quan điểm cho rằng: Cần phải hợp tác, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm để duy trì sản xuất ở mức hợp lý khoảng 80% công suất thiết kế, tránh tình trạng dư thừa như hiện nay.

Ngoài ra, để đảm bảo tính cạnh tranh lành mạnh trên thị trường, các công ty xi măng không được bán dưới giá thành. Để làm được điều đó, ơ mỗi khu vực, các doanh nghiệp nên thống nhất cử ra một doanh nghiệp có đủ tiềm lực, uy tín thương trường làm “doanh nghiệp dẫn dắt thị trường” để tạo dựng một thị trường có tổ chức.

Đồng thời, để tháo gỡ khó khăn cho ngành xi măng, Thường trực Hiệp hội xi măng Việt Nam cũng kiến nghị với Chính phủ và Quốc hội: Giãn nợ các khoản vay nước ngoài, cơ cấu lại danh mục nợ, khoanh nợ, lùi thời hạn trả nợ các khoản vay trong nước đã đến hạn. Thêm vào đó, kiến nghị hạ lãi suất cho vay về mức hợp lý 10 – 12%/năm, giảm thuế VAT xuống còn 5% như thời điểm 2008 – 2009. 
Hà Nhi