Sau hơn 9 thực hiện Luật Phá sản 2004 thể hiện được vai trò là một trong những công cụ pháp lý quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế của Việt Nam trong việc thể chế hóa chính sách kinh tế của Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, hợp tác xã đang trong tình trạng sản xuất kinh doanh khó khăn, thua lỗ có cơ hội để rút khỏi thị trường một cách có trật tự.
Tuy nhiên, Luật Phá sản 2004 đã bộc lộ một số hạn chế tác động tiêu cực đến việc thúc đẩy sự phát triển kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã...
Cụ thể, đến nay nhiều quy định của Luật khó thực hiện nên số lượng các vụ phá sản do Tòa án thụ lý chưa nhiều. Một số doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả nhưng không tiến hành phá sản được. Điều này ảnh hưởng trực tiếp tới việc đánh giá năng lực thực tế của doanh nghiệp, hợp tác xã và sự lành mạnh của nền kinh tế. Vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung một số quy định của Luật Phá sản hiện nay là việc làm cần thiết.
Trong dự thảo Luật Phá sản sửa đổi được đưa ra mới đây, nội dung quy định về tiêu chí xác định doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản đang nhận được nhiều ý kiến khác nhau. Tại Điều 3 của dự thảo Luật Phá sản sửa đổi quy định: “Doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn từ 200 triệu đồng trở lên trong thời gian 3 tháng, kể từ ngày chủ nợ có yêu cầu thì được coi là lâm vào tình trạng phá sản”.
Tuy nhiên, Luật Phá sản 2004 đã bộc lộ một số hạn chế tác động tiêu cực đến việc thúc đẩy sự phát triển kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã...
Cụ thể, đến nay nhiều quy định của Luật khó thực hiện nên số lượng các vụ phá sản do Tòa án thụ lý chưa nhiều. Một số doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả nhưng không tiến hành phá sản được. Điều này ảnh hưởng trực tiếp tới việc đánh giá năng lực thực tế của doanh nghiệp, hợp tác xã và sự lành mạnh của nền kinh tế. Vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung một số quy định của Luật Phá sản hiện nay là việc làm cần thiết.
Doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn từ 200 triệu đồng trở lên trong thời gian 3 tháng, kể từ ngày chủ nợ có yêu cầu thì được coi là lâm vào tình trạng phá sản |
Trong dự thảo Luật Phá sản sửa đổi được đưa ra mới đây, nội dung quy định về tiêu chí xác định doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản đang nhận được nhiều ý kiến khác nhau. Tại Điều 3 của dự thảo Luật Phá sản sửa đổi quy định: “Doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn từ 200 triệu đồng trở lên trong thời gian 3 tháng, kể từ ngày chủ nợ có yêu cầu thì được coi là lâm vào tình trạng phá sản”.
Doanh nghiệp nợ 200 triệu đồng mà phải phá sản thì "thật nực cười”
‘Chơi kiểu gì cũng chết’, rủ nhau bỏ chứng khoán
Đánh giá về nội dung quy định và tiêu chí xác định tình trạng phá sản được đưa ra trong dự thảo Luật này, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính ngân sách Phùng Quốc Hiển cho rằng, Luật Phá sản (sửa đổi) đưa ra khái niệm phá sản quá đơn giản và thiếu thực tế, dựa trên tiêu chí này “sẽ dẫn tới 99% doanh nghiệp của Việt Nam hiện nay nằm trong diện phá sản”. Theo Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính ngân sách Phùng Quốc Hiển, phá sản là một hiện tượng của kinh tế thị trường trong kinh doanh. “Nhưng như thế nào là phá sản? Định nghĩa của cơ quan soạn thảo đưa ra quá đơn giản, chỉ là mất khả năng thanh toán. Không phải một món nợ 200 triệu đồng sau 3 tháng không trả được mà quyết định rằng doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Tôi cho rằng, phải dùng từ mất toàn bộ khả năng thanh toán”, ông Hiển nói.
Theo phân tích của Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính ngân sách trên VnEconomy, thực tế hiện nay vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp và quá trình luân chuyển của đồng vốn chỉ có 15-20% trong toàn bộ hoạt động kinh doanh, còn lại là vay ngân hàng.
“Con số 200 triệu đồng đưa đưa ra là không ổn. Vừa qua, có những doanh nghiệp của chúng ta số nợ gấp 10 lần vốn chủ sở hữu vẫn chưa phá sản vì nó vẫn còn có một luồng tiền của ngân hàng bơm vào, vẫn cân đối được. Cho nên khái niệm về phá sản như trong dự thảo Luật này quá đơn giản và cũng không thực tế” – ông Hiển kết luận.
Ở khía cạnh khác, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Nguyễn Văn Hiện cho rằng quy định đối tượng áp dụng như dự thảo luật là phù hợp với tình hình của Việt Nam, nhất là trong tình trạng quá tải của tòa án như hiện nay. Ông nhận định, tiêu chí xác định doanh nghiệp lâm vào phá sản là cực kỳ quan trọng và là một trong những vấn đề then chốt để thụ lý và giải quyết các vụ án liên quan đến phá sản.
Tuy nhiên theo ông Hiện, có những doanh nghiệp tiền vốn chỉ vài chục triệu đồng, vài trăm triệu đồng nhưng cũng có những doanh nghiệp lên đến hàng ngàn tỷ đồng, trăm ngàn tỷ đồng, do đó việc đưa ra tiêu chí doanh nghiệp, hợp tác xã “không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn từ 200 triệu đồng trở lên trong thời gian 3 tháng, kể từ ngày chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản” là không thực tế. Thay vào đó, cần xem xét trên cơ sở tỷ lệ nợ đến hạn không trả được của doanh nghiệp so với tổng vốn đăng ký kinh doanh.
Phó Chánh án TANDTC Nguyễn Sơn cũng cho rằng việc xác định vốn của doanh nghiệp rất khó nên đặt vấn đề là khoản nợ từ 200 triệu đồng trở lên thì chủ nợ có quyền yêu cầu giải quyết phá sản với doanh nghiệp nợ.
Về ý kiến nợ 200 triệu đồng trong 3 tháng là khoản tiền không lớn, thời gian ngắn, Thứ trưởng Đặng Huy Đông - Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đặng Huy Đông nhận định: Đặt vấn đề một doanh nghiệp lớn sao số nợ nhỏ như thế lại không thanh toán được. Nếu một doanh nghiệp hoạt động bình thường thì không bao giờ muốn có chuyện bị đệ đơn yêu cầu phá sản, bởi doanh nghiệp phải giữ thương hiệu, uy tín.
Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội, bà Trương Thị Mai nhấn mạnh, phá sản trong kinh tế thị trường là việc hết sức bình thường, do đó rất cần sự điều chỉnh của luật. Việc tuyên bố giải thể, dừng hoạt động thì cơ chế giải quyết nợ không minh bạch, rõ ràng như quy chế phá sản.
Trong khi đó, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc K’Sor Phước đề xuất trong luật này nên đưa ra một quy định đề cập về các mức cảnh báo: “Cảnh báo thứ nhất là ở mức độ nào thì doanh nghiệp đứng trước nguy cơ sẽ bị phá sản để điều chỉnh lại hoạt động quản lý kinh doanh. Cảnh báo thứ hai là mức cảnh báo tương đối nguy cấp, tức là doanh nghiệp vẫn còn điều kiện để sản xuất kinh doanh nhưng đã đến ngưỡng của phá sản. ở giai đoạn này, chủ nợ không tiếp tục đóng góp vào nữa hoặc nếu đóng góp thì phải tổ chức ngay các đại hội, nếu cổ phần thì phải tổ chức đại hội cổ đông để được biết những thông tin đó và quyết định rút vốn hay không rút vốn mà tăng cường thêm vốn. Qua mức 2 là sang bước phải tiến hành làm thủ tục phá sản”. Phó chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu cho rằng từ thực tế của doanh nghiệp, hợp tác xã và tình hình sản xuất, kinh doanh hiện nay nhiều doanh nghiệp “đang chết”. Từ thực tế đó Nghị quyết, chủ trương của Đảng cũng đã xác định rất rõ là cần phải sửa đổi một cách căn bản Luật Phá sản hiện nay. Nêu ra con số hơn 54.000 doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản nhưng 9 năm qua chỉ có thụ lý được hơn 360 đơn và ra được quyết định có 83 trường hợp phá sản, ông Lưu đề nghị trong cơ quan soạn thảo dự án Luật và cơ quan thẩm tra, phải đánh giá, phân tích một cách sâu sắc thuyết phục hơn tình trạng hiện nay về thủ tục phá sản khó khăn hay không mà chỉ giải quyết được ít như vậy.
Theo tờ trình của Chính phủ, năm 2012 có 54.261 doanh nghiệp dừng hoạt động và giải thể (44.906 doanh nghiệp dừng và 9.355 giải thể). Trong khi đó, qua 9 năm thi hành Luật Phá sản 2004, tòa án đã thụ lý tổng số 336 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản. Trong đó, tòa án đã ra quyết định mở thủ tục phá sản 236 doanh nghiệp (chỉ 83 doanh nghiệp được tòa quyết định tuyên bố phá sản, còn 153 vụ việc chưa ra quyết định tuyên bố phá sản).
Cơ quan soạn thảo dự luật nhận định, số lượng đơn yêu cầu tòa án tuyên bố phá sản so với số lượng doanh nghiệp ngừng hoạt động là rất thấp. Có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng trong đó có nguyên nhân quy định pháp luật phá sản chưa phù hợp với tình hình kinh tế và xã hội, không tạo điều kiện cho cá nhân, tổ chức yêu cầu tuyên bố phá sản.
Cơ quan soạn thảo dự luật nhận định, số lượng đơn yêu cầu tòa án tuyên bố phá sản so với số lượng doanh nghiệp ngừng hoạt động là rất thấp. Có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng trong đó có nguyên nhân quy định pháp luật phá sản chưa phù hợp với tình hình kinh tế và xã hội, không tạo điều kiện cho cá nhân, tổ chức yêu cầu tuyên bố phá sản.
Hồng Minh