Quy định mới về tính tuổi quân trong Quân đội nhân dân Việt Nam

22/03/2012 10:36
Theo QĐND
Bộ Quốc phòng vừa ban hành Thông tư số 18/2012/TT-BQP về việc quy định tính tuổi quân trong Quân đội nhân dân Việt Nam.

Bộ Quốc phòng vừa ban hành Thông tư số 18/2012/TT-BQP về việc quy định tính tuổi quân trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Thông tư có hiệu lực thi hành từ ngày 15/4/2012.

Theo đó, tuổi quân là thời gian phục vụ tại ngũ của quân nhân trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Thời gian phục vụ tại ngũ đủ 12 tháng được tính là 1 tuổi quân.

Tuổi quân được tính từ ngày cấp có thẩm quyền công nhận là quân nhân và chịu sự quản lý của Quân đội về mọi mặt cho đến ngày có quyết định thôi phục vụ tại ngũ hoặc bị hy sinh, từ trần trong thời gian phục vụ tại ngũ.

Tuổi quân cao nhất được tính từ ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (ngày 22-12-1944).

Huấn luyện võ thuật tại Tiểu đoàn Đặc công 18 (Bộ tư lệnh Thủ đô Hà Nội)
Huấn luyện võ thuật tại Tiểu đoàn Đặc công 18 (Bộ tư lệnh Thủ đô Hà Nội)

Các trường hợp được tính tuổi quân:

1. Công dân tham gia các tổ chức vũ trang trong thời gian từ ngày 22-12-1944 đến ngày 19-8-1945 mà tổ chức vũ trang đó đã thoát ly sản xuất, chịu sự quản lý về mọi mặt của tổ chức cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trở lên thì được tính tuổi quân từ ngày gia nhập tổ chức vũ trang nói trên.

Trong kháng chiến chống Pháp, những quân nhân thuộc bộ đội địa phương được tính tuổi quân từ ngày gia nhập các đơn vị thuộc cấp huyện và thị xã trở lên, hoàn toàn thoát ly sản xuất, tập trung theo nền nếp sinh hoạt của Quân đội, chịu sự chỉ huy và quản lý mọi mặt của cấp huyện, thị xã trở lên.

2. Công dân dưới 15 tuổi tình nguyện tham gia Quân đội trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ được tính tuổi quân khi đủ 15 tuổi. Việc tính tuổi quân cho những người tình nguyện tham gia kháng chiến dưới 15 tuổi do Bộ trưởng Bộ Quốc phòng xem xét, quyết định.

3. Công dân vào phục vụ trong Quân đội theo Luật Nghĩa vụ quân sự, Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam được tính tuổi quân từ ngày giao nhận quân theo quy định của cấp có thẩm quyền và chịu sự quản lý về mọi mặt của Quân đội.

4. Công dân qua tuyển sinh quân sự được vào học tại các trường đào tạo sĩ quan, chuyên môn kỹ thuật được tính tuổi quân từ ngày cấp có thẩm quyền quy định tập trung nhập học.

5. Học sinh thiếu sinh quân, học viên trường năng khiếu trong Quân đội (nhập học theo chỉ tiêu của Bộ Quốc phòng) đến 17 tuổi có nguyện vọng phục vụ lâu dài trong quân đội, có đủ tiêu chuẩn quy định của Bộ Quốc phòng, được Tổng tham mưu trưởng quyết định công nhận quân nhân thì tuổi quân được tính từ ngày quyết định có hiệu lực.

6. Quân nhân xuất ngũ sau đó được gọi vào phục vụ tại ngũ trong Quân đội hoặc theo lệnh động viên thì được tính tuổi quân từ ngày cấp có thẩm quyền quyết định tập trung tại đơn vị và được cộng với thời gian phục vụ tại ngũ trong Quân đội trước đó.

7. Công nhân viên chức quốc phòng khi có quyết định chuyển sang quân nhân thì tuổi quân được tính từ ngày quyết định có hiệu lực.

8. Công nhân viên quốc phòng chuyển sang chế độ quân nhân trước ngày ban hành Nghị định số 354/NĐ ngày 8-11-1957 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định về tính tuổi quân trong Quân đội nhân dân Việt Nam thì thời gian là công nhân viên quốc phòng trước khi chuyển sang chế độ quân nhân được tính tuổi quân.

9. Sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân được chuyển sang phục vụ trong Quân đội theo chế độ quân nhân thì thời gian công tác là sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ trong lực lượng Công an được tính thâm niên như tuổi quân.

10. Những trường hợp sau đây vẫn được tính tuổi quân:

a) Quân nhân được cấp có thẩm quyền cử đi học tập ở các trường ngoài Quân đội, ở nước ngoài để phục vụ Quân đội; được cử đi công tác biệt phái.

b) Quân nhân bị thương, bị bệnh được cấp có thẩm quyền cho đi điều trị, điều dưỡng ở bệnh viện, đoàn an dưỡng trong, ngoài Quân đội.

c) Quân nhân lạc ngũ, mất tin dưới 6 tháng trong các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc được Thủ trưởng cấp Trung đoàn hoặc tương đương trở lên xác nhận không có chứng cứ đầu hàng địch, phản bội Tổ quốc hoặc đào, bỏ ngũ.

d) Quân nhân bị địch bắt sau đó trở về đơn vị, nếu không có chứng cứ đầu hàng địch, phản bội Tổ quốc thì thời gian bị địch bắt vẫn được tính tuổi quân.

đ) Quân nhân bị Tòa án kết án oan sai và được cấp có thẩm quyền tuyên bố không có tội, thì thời gian bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù oan được tính tuổi quân; bị kỷ luật oan, tước danh hiệu quân nhân và được cấp có thẩm quyền sửa sai thì thời gian bị kỷ luật oan cũng được tính tuổi quân.

e) Quân nhân bị Tòa án xử phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo, được giao cho cơ quan, đơn vị Quân đội giám sát, giáo dục, tiếp tục công tác thì thời gian chấp hành hình phạt vẫn được tính tuổi quân.

g) Quân nhân phạm tội bị Tòa án xử phạt tù giam, nếu không bị tước danh hiệu quân nhân thì thời gian công tác trước khi bị phạt tù giam được tính tuổi quân.

h) Quân nhân phục viên, xuất ngũ, chuyển ngành trong thời gian dưới 12 tháng nếu được cấp có thẩm quyền gọi trở lại phục vụ Quân đội theo chế độ quân nhân thì thời gian phục viên, xuất ngũ, chuyển ngành được tính tuổi quân liên tục.

11. Việc tính tuổi quân cho các trường hợp có lý lịch phức tạp, chưa rõ ràng, trường hợp đặc biệt tham gia Quân đội trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, những người được cử làm các nhiệm vụ đặc biệt phải được Thủ trưởng cấp Trung đoàn hoặc tương đương trở lên xác nhận, báo cáo cấp trên đến cấp trực thuộc Bộ đề nghị Bộ Quốc phòng xem xét, quyết định.

Các trường hợp không được tính tuổi quân:

1. Quân nhân bị địch bắt đã đầu hàng địch, phản bội Tổ quốc.

2. Quân nhân phạm tội bị Tòa án xử phạt tù giam và bị cấp có thẩm quyền tước danh hiệu quân nhân thì thời gian phục vụ tại ngũ trước khi bị tước danh hiệu quân nhân không được tính tuổi quân và thời gian chấp hành hình phạt tù giam không được tính tuổi quân.

3. Quân nhân vi phạm kỷ luật bị tước danh hiệu quân nhân.

4. Quân nhân đào ngũ được tiếp nhận lại đơn vị, thì thời gian đào ngũ không được tính tuổi quân. Nếu đào ngũ không trở lại đơn vị, thì thời gian phục vụ tại ngũ trước khi đào ngũ không được tính tuổi quân.

Quân nhân có thời gian phục vụ tại ngũ gồm nhiều giai đoạn thì thời gian tính tuổi quân bằng tổng thời gian phục vụ của các giai đoạn cộng lại.


Theo QĐND