Việt Nam nằm dưới mức trung bình thế giới về “tiếp thu đại học”

19/01/2014 07:21
Lê Viết Khuyến
(GDVN) - Trong 10 chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá trình độ hiện đại của một quốc gia, trong đó có 2 chỉ tiêu về giáo dục thì Việt Nam có cái thừa, cái thiếu…

Chỉ tiêu thừa và thiếu

Giáo dục đại học không hướng trực tiếp tới mục đích phát triển dân trí. Tuy nhiên, với sự phát triển nhanh chóng của khoa học, kỹ thuật và công nghệ, quy mô đào tạo đại học ở nhiều nước đang không ngừng gia tăng và ở một số thời điểm, có sự gia tăng đột biến. Theo phân loại được thừa nhận hiện nay, một quốc gia nếu có tỷ lệ dân số trong độ tuổi 18 đến 22 được tiếp thu giáo dục đại học (chính xác hơn là giáo dục sau trung học) đạt dưới 15 % thì nền giáo dục của quốc gia đó được xem đang ở giai đoạn tinh hoa – giai đoạn hướng chủ yếu vào việc đào tạo các học giả và một số chuyên gia. 

Còn khi tỷ lệ trên nằm trong khoảng 15-50% - giáo dục đại học chuyển qua giai đoạn đại chúng; vượt quá 50 % - qua giai đoạn phổ cập – với mục tiêu là đào tạo ra không chỉ có các học giả mà còn có cả một đội ngũ rất hùng hậu gồm các chuyên gia, nhà công nghệ, kỹ thuật viên và công nhân kỹ thuật cao. 

Đào tạo nguồn nhân lực ở Việt Nam. Ảnh minh họa
Đào tạo nguồn nhân lực ở Việt Nam. Ảnh minh họa

Theo báo cáo giáo dục của WB (Ngân hàng thế giới)–2012 thì tỷ lệ này ở Hoa Kỳ là 95% (2010), ở Pháp là 57% (2010), ở Australia là 80% (2010), ở Hàn quốc là 103 % (2010), ở Thái Lan là 48% (2011). Trong khi đó, Việt Nam mặc dù đã rất cố gắng, thậm chí phải đổi giá về chất lượng, hãy còn dừng lại ở con số rất khiêm tốn là  24 % (2011), nằm dưới mức trung bình của thế giới là 30 %.

Trong 10 chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá trình độ hiện đại của một quốc gia có 2 chỉ tiêu liên quan tới giáo dục: Một là, tỷ lệ người biết chữ trong tổng số dân vượt 80%. Hai là, tỷ lệ thanh niên trong độ tuổi 18 đến 22 được tiếp thu học vấn đại học vượt ngưỡng 12-15 %. Với mục tiêu trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, tại thời điểm này Việt nam đã vượt xa chỉ tiêu thứ nhất nhưng đối với chỉ tiêu thứ 2 thì vẫn mới tiếp cận.

Phân tầng giáo dục đại học (GDĐH) là sự thừa nhận tính đa dạng về sứ mệnh của các cơ sở GDĐH. Khái niệm GDĐH phân tầng trên thực tế chỉ gắn với một nền GDĐH đại chúng (mass higher education) - một trong những đòi hỏi để bảo đảm cho một quốc gia bước qua giai đoạn hiện đại hóa.

Ở Việt Nam, vấn đề phân tầng GDĐH tuy được nhắc đến nhiều nhưng dường như chỉ dừng lại ở sự “ ban phát “ của Nhà nước. Không ít trường đại học tuy được xếp vào loại “ trọng điểm “, “ định hướng nghiên cứu “, “ đào tạo nhân lực chất lượng cao “, “ xuất sắc” … nhưng lại có chi phí đơn vị rất thấp, quy mô sinh viên quá lớn và bỏ qua nhiệm vụ nghiên cứu khoa học. Trong khi đó một số trường lẽ ra thuộc đẳng cấp dưới lại đuổi theo mục tiêu nghiên cứu khoa học, đào tạo tiến sỹ.  Việc Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định số giờ nghiên cứu khoa học như nhau cho giảng viên ở tất cả các trường đại học là điều quá vô lý.

Có quan niệm đơn giản cho rằng chỉ cần giảm quy mô đào tạo là có thể nâng cao được chất lượng GDĐH, bắt nguồn từ cách nhìn kiểu “ học giả “ của GDĐH tinh hoa để xem xét vấn đề chất lượng GDĐH ở thời kỳ CNH, HĐH. Theo những học giả này thì chất lượng phải là cái tuyệt hảo và do vậy nó chỉ có được ở số ít, không thể có ở số đông.

Tuy nhiên, dưới cách hiểu của các nhà quản lý thì một sản phẩm hay một dịch vụ được xem là có chất lượng khi chúng thoả mãn những chuẩn mực đã được định trước. Theo cách hiểu đó chất lượng GDĐH là sự phù hợp với những tuyên bố sứ mạng và kết quả đạt được của mục tiêu trong phạm vi các chuẩn mực được chấp nhận công khai. 

Như vậy, không thể định ra một chuẩn mực chất lượng duy nhất cho tất cả các cơ sở đại học và cao đẳng. Trong quy hoạch mạng lưới các trường đại học và cao đẳng đến năm 2020 của Việt nam có các loại hình trường khác nhau như đại học quốc gia, đại học khu vực, trường đại học trọng điểm, học viện, trường đại học, trường cao đẳng, trường đại học mở và trường cao đẳng cộng đồng. 

Mỗi loại trường có một sứ mệnh khác nhau và do đó, có những chuẩn mực chất lượng khác nhau nên không thể lấy cái nhìn kiểu “học giả” để áp đặt các chuẩn mực chất lượng của các đại học quốc gia hay của các trường đại học trọng điểm cho các trường đại học địa phương, trường đại học mở, trường cao đẳng và cao đẳng cộng đồng để rồi cho rằng đó là những loại trường kém  chất lượng, không “xứng đáng” được đứng trong hàng ngũ đại học. Đây là quan điểm chính thống của tất cả các nước trong việc xây dựng hệ thống bảo đảm chất lượng và kiểm nhận chất lượng giáo dục đại học của mình.

Hạn chế nguồn nhân lực Việt Nam là gì?

Đào tạo nguồn nhân lực đòi hỏi phải đầu tư rất tốn kém. Do đó, các kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực phải bám sát chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Các mục tiêu của giáo dục và đào tạo từ nay tới năm 2020 phải được xây dựng xuất phát từ các mục tiêu về phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đã được khẳng định trong các Văn kiện của các Đại hội VIII , IX , X và XI. 

Căn cứ vào nhu cầu của thị trường nhân lực những năm gần đây, có thể rút ra một kết luận là chúng ta không thể đưa đất nước vượt qua đói nghèo, tiến nhanh, tiến kịp thời đại chỉ với nguồn nhân lực quá thấp kém về trình độ khoa học và công nghệ vì không được qua đào tạo (mặc dù có mặt bằng học vấn không thấp) hoặc  được đào tạo ở mức dưới chuẩn như hiện nay. 

Kết quả điều tra vừa qua của “Chương trình nghiên cứu về trình độ văn hoá, tay nghề của công nhân Việt nam” cho thấy, theo tiêu chí trình độ học vấn khoảng 4,13 % có trình độ tiểu học, 34,54 % trình độ trung học cơ sở và 43,37 % trình độ trung học phổ thông; nhưng theo tiêu chí trình độ nghề nghiệp thì chỉ có 17,55 % có các văn bằng trung học kỹ thuật, cao đẳng và đại học. 

Trong khi ở các nước khu vực đội ngũ công nhân được đào tạo chủ yếu từ trình độ trung học nghề trở lên, còn đội ngũ kỹ thuật viên chủ yếu từ trình độ cao đẳng trở lên thì ở Việt nam, cả hai lực lượng này chủ yếu được đào tạo ở các trình độ tương ứng là sơ cấp và trung cấp. Nhận định đó cũng được phản ánh rõ nét qua kết quả đánh giá tổng hợp nguồn nhân lực của Tổ chức BERI (Business Enviroment Risk Intelligence) mà theo đó thì Việt Nam được xếp vào nhóm nước cuối cùng, nhóm nước có kỹ năng nghề nghiệp ở dưới mức tiêu chuẩn. 

Đây là một hạn chế lớn của đội ngũ nhân lực Việt Nam hiện nay và sẽ chưa thể được khắc phục chừng nào các chuyên gia hoạch định chính sách phát triển nhân lực cho Việt nam còn chưa nhận thức được trong điều kiện khoa học và công nghệ hiện đại, tương ứng với mỗi chức danh trong dây chuyền sản xuất có thể có nhiều trình độ đào tạo khác nhau chứ không phải cứ như nếp nghĩ cũ rằng chỉ có một trình độ đào tạo duy nhất. Phải thấy rằng ngày nay trình độ cao đẳng, đại học không chỉ dành riêng cho “thầy” còn đối với “thợ” thì đó là “vùng cấm”. Cũng không phải cứ đào tạo tiếp “thợ” lên trình độ cao đẳng hoặc đại học là chuyển họ lên đẳng cấp “thầy”, dẫn tới tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ” như đôi người vẫn nói lâu nay.

Xu hướng chung của giáo dục thế giới hiện nay là giáo dục nghề đang xâm nhập ngày càng sâu vào lĩnh vực GDĐH, để cùng với GDĐH truyền thống, hình thành nên nền giáo dục sau trung học (Postsecondary Education) hoặc giáo dục bậc ba (Tertiary Education), góp phần quan trọng đưa GDĐH ở nhiều nước chuyển nhanh từ giai đoạn tinh hoa qua giai đoạn đại chúng và tiếp đó là giai đoạn phổ cập, đáp ứng kịp thời nhu cầu nhân lực cho sự ra đời một nền kinh tế tri thức ở những nước đó. 

Do vậy có hai khái niệm cần phải làm rõ ở đây. Một là, đại chúng và phổ cập hoá GDĐH không có nghĩa là mở rộng không hạn chế hệ thống GDĐH truyền thống vốn có bằng cách thành lập mới hoặc „đại học hóa „ các trường cao đẳng theo hướng hàn lâm; và Hai là, giáo dục sau trung học không phải là một phép cộng thuần tuý giữa hoàn thành trung học phổ thông với dạy nghề mọi kiểu, kể cả dạy nghề giản đơn tiếp sau đó.

Còn nữa…
Lê Viết Khuyến