Chiến tranh đã lùi xa, Đảng, Nhà nước, nhân dân Việt Nam mong muốn khép lại quá khứ để nhìn về tương lai hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển.
Đại thắng mùa xuân năm 1975 thực sự là động lực để chúng ta vượt qua mọi gian nan, thử thách, vững bước tiến lên vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho hôm nay và muôn đời sau.
Thế nhưng đến nay vẫn có những kẻ cố lừa phỉnh dư luận qua việc ngợi ca chế độ dân chủ, tự do và kinh tế phát triển dưới thời chính quyền Sài Gòn, phủ nhận giá trị của chiến thắng trong thời kỳ mới.
Những luận điệu ấy lan truyền trên internet dưới nhiều hình thức, như bài viết, clip hòng đánh lừa những người ít thông tin, thiếu hiểu biết, đặc biệt là nhắm vào thế hệ trẻ.
Nền kinh tế yếu kém, tham nhũng của chính quyền Sài Gòn
Sự thật tiềm lực kinh tế miền Nam trước giải phóng ra sao?
Trong cuốn "Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp hóa Việt Nam" (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, năm 2005), giáo sư Trần Văn Thọ cho biết, tính chung giai đoạn 1955-1975, kinh tế tại miền Nam chỉ phát triển trung bình 3,9%/năm (bình quân đầu người tăng 0,8%/năm).
Trong khi cũng giai đoạn ấy, kinh tế tại miền Bắc xã hội chủ nghĩa phát triển bình quân 6%/năm (GDP đầu người tăng khoảng 3%/năm).
Trước giải phóng, các ngành sản xuất của miền Nam rất yếu kém. Công nghiệp chỉ chiếm tỷ trọng từ 8% đến 10% GDP, thậm chí có những năm chỉ còn 6%. Nông-lâm-ngư nghiệp luôn chiếm tỷ trọng khoảng 30% GDP.
Còn tỷ trọng của khu vực dịch vụ là khoảng 45%-60%. Công nghiệp miền Nam đến hơn 90% là công nghiệp nhẹ được hình thành và phát triển gắn với chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ.
Đại thắng mùa xuân năm 1975 - Động lực để Việt Nam vươn ra biển lớn |
Các doanh nghiệp có quy mô siêu nhỏ, chỉ khoảng 1% cơ sở có quy mô từ 10 công nhân trở lên, 99% là dưới 10 công nhân.
Sản xuất công nghiệp phụ thuộc vào nước ngoài về trang thiết bị và nguyên liệu, có giai đoạn 100% nguyên liệu phải nhập khẩu (Theo Lịch sử phát triển Công nghiệp-Thương mại-Giai đoạn 1975-1985, Bộ Công Thương).
Vì thế, có giai đoạn, chính quyền đã bỏ chính sách nhập khẩu nguyên liệu phục vụ sản xuất mà hướng thẳng tới việc nhập hàng tiêu dùng.
Ngân sách của chính quyền Sài Gòn luôn trong tình trạng thâm hụt mà nguyên nhân chính là các khoản chi cho quân sự luôn lớn hơn chi cho dân sự.
Thâm hụt ngân sách thường ở mức 30%-40%, trong đó cao nhất là năm 1965 với 41%. Lạm phát giai đoạn 1965-1970 thường hơn 30%, cao nhất là năm 1966 lên tới 61%.
Trong cơ cấu chi ngân sách, chi tiêu quân sự luôn chiếm tỷ trọng lớn, cao nhất là 66% (vào năm 1968 và năm 1969).
Chi tiêu dân sự có tới 80% là chi trả lương cho đội ngũ công chức trong chính phủ. Vì thế, phần đầu tư cho phát triển ở mức rất thấp.
(Theo Giáo sư Đặng Phong, Kinh tế miền Nam thời kỳ 1955-1975, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2004).
Trả lời phỏng vấn BBC, chuyên gia kinh tế là Việt kiều Mỹ, ông Bùi Kiến Thành từng đánh giá, kinh tế dưới chế độ Sài Gòn là "nền kinh tế phát triển ảo", "không vững chắc", "không dựa vào cơ sở kinh tế mà chỉ dựa vào chiến tranh là chính".
Ông Bùi Kiến Thành nhận định đây là nền kinh tế "chưa trong sáng", cụm từ chỉ tình trạng tham nhũng tràn lan của chính quyền Sài Gòn.
Như thế có thể thấy, kinh tế của chính quyền Sài Gòn mà một số kẻ cố tình ngợi ca, thổi phồng chỉ là một nền kinh tế yếu kém, lệ thuộc hoàn toàn vào hàng trợ cấp của Mỹ, thứ kinh tế phục vụ chiến tranh.
Nó chỉ tạo ra sự phồn hoa giả tạo ở Sài Gòn, một lối sống tiêu dùng nhờ hàng nhập khẩu từ Mỹ.
Sài Gòn được coi là “Hòn ngọc Viễn Đông” bởi thời bấy giờ các nước trong khu vực đều còn nghèo.
Chỉ cần ra khỏi Sài Gòn vài chục cây số, đến những vùng nông thôn rộng lớn của miền Nam, người dân sống chìm trong nghèo đói, tăm tối.
Điều quan trọng nhất là chế độ ngụy quyền Sài Gòn là một chế độ tay sai, do đế quốc Mỹ dựng lên, điều khiển, là công cụ để cai trị dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam như một thuộc địa kiểu mới, để thực hiện mưu đồ và vì lợi ích của đế quốc Mỹ.
Những ai trong chính quyền Sài Gòn không tuân theo chỉ đạo, không vì lợi ích của Mỹ sẽ bị gạt ra, thậm chí bị mất mạng.
Điển hình nhất là ông Ngô Đình Diệm, khi đang là Tổng thống của chính quyền Sài Gòn, nhưng chỉ cần biểu lộ những mưu đồ riêng, bất tuân theo sự chỉ đạo, sắp đặt của đế quốc Mỹ, lập tức bị Mỹ giật dây, thúc đẩy một số tướng lĩnh Sài Gòn đảo chính, bắn chết cả hai anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu.
Chính quyền Sài Gòn là kẻ thù của nhân dân
Những kẻ nói dối còn cho rằng, chính quyền Sài Gòn là chính quyền được lòng dân.
Sự thật, đây là một chính quyền tàn ác với nhân dân và bị nhân dân coi là kẻ thù, nổi dậy chống lại.
Tính đến cuối năm 1960, phong trào Đồng Khởi của nhân dân miền Nam căn bản làm tan rã cơ cấu chính quyền cơ sở của chế độ Sài Gòn ở nông thôn.
Trong 2.627 xã toàn miền Nam, nhân dân đã lập chính quyền tự quản ở 1.383 xã, đồng thời làm tê liệt chính quyền Mỹ-Diệm ở hầu hết các xã khác...
Năm 1963, toàn miền Nam có 34 triệu lượt người tham gia đấu tranh chính trị.
Nhân dân đã phá hoàn toàn 2.895 ấp chiến lược, phá thế kìm kẹp, giành quyền làm chủ ở 12.000 thôn trong tổng số 17.000 thôn toàn miền Nam, giải phóng hơn 5 triệu dân trong tổng số 14 triệu dân toàn miền Nam.
Do bị đàn áp tôn giáo, các tăng ni, phật tử đã đấu tranh ở Huế ngày 22/5/1963 đòi được treo cờ Phật trong lễ Phật đản.
Hòa thượng Thích Quảng Đức đã tự thiêu ở Sài Gòn; Đại đức Thích Thanh Tuệ và hòa thượng Thích Tiêu Diêu đã tự thiêu ở Huế để phản đối chính sách khủng bố, đàn áp tôn giáo của chính quyền Sài Gòn.
Ngày 20/8/1964, 20 vạn đồng bào bao vây Dinh Độc Lập phản đối chính quyền Sài Gòn.
Ngày 24/9/1964, hơn 100.000 công nhân Sài Gòn-Gia Định bãi công và tuần hành để phản đối chế độ độc tài quân sự Sài Gòn (theo “Giai đoạn 1955-1975: Xây dựng Chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất đất nước).
Sự tàn ác của chế độ ngụy quyền Sài Gòn thể hiện rõ qua cách ứng xử của quân đội Sài Gòn với người dân.
Nhà sử học Gregory Daddis nhận xét:
“Những hành vi tội ác của quân đội Sài Gòn khiến người dân xem họ như kẻ thù.
Khi được hỏi tại sao người dân không ủng hộ chính quyền Sài Gòn, người dân đã trả lời:
Vì quân đội Sài Gòn thường xuyên đốt nhà của dân làng, thoải mái đánh đập, giết bất cứ ai và hiếp dâm phụ nữ.
Cứ mỗi lần quân đội Sài Gòn tới thì lại càng có nhiều người kết thân với Việt cộng” (Theo cuốn “Chiến tranh của Westmoreland: Đánh giá lại chiến lược của Mỹ tại Việt Nam”).
Những kẻ vô lương tâm ca ngợi chính quyền Sài Gòn làm sao có thể che giấu được sự thật về cuộc sống bị kìm kẹp, tù túng, đau khổ của người dân miền Nam trong những “khu trù mật”, “ấp chiến lược” do Mỹ và chính quyền Sài Gòn tạo ra; rồi những hình phạt tàn ác như thời trung cổ là chặt đầu bằng máy chém, những sự đàn áp dã man Phật giáo mà chính quyền Ngô Đình Diệm đã thi hành trên khắp miền Nam.
Chẳng lẽ họ nghĩ người dân đã quên tiếng kêu khóc của những phụ nữ hiền lành, trẻ em vô tội bị lính Mỹ thảm sát ở miền Nam, trong đó điển hình là vụ thảm sát tại thôn Mỹ Lai (thuộc làng Sơn Mỹ, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi)?...
Nói xã hội miền Nam Việt Nam trước giải phóng là một xã hội dân chủ, hạnh phúc là một sự lừa đảo trắng trợn trên xương máu, trên nỗi đau của nhân dân miền Nam trước giải phóng.
Vì bị người dân coi như kẻ thù nên quân đội Sài Gòn rất chật vật trong việc kiểm soát tình hình.
Năm 1975, toàn bộ 13 sư đoàn và 17 liên đoàn biệt động quân (tương đương hơn 5 sư đoàn) phải bảo vệ 44 tỉnh; tính trung bình một tỉnh chỉ có 1 đến 2 trung đoàn chính quy đóng giữ.
Do phải trải quân giữ đất, lo đối phó với người dân, đàn áp người dân nên quân đội Sài Gòn luôn thất thế khi phải đối mặt với Quân Giải phóng.
Ngược lại, chính vì được nhân dân ủng hộ nên lực lượng giải phóng với ba thứ quân lớn mạnh vượt bậc.
Vùng giải phóng mở rộng, chiếm phần lớn lãnh thổ miền Nam, trở thành hậu phương trực tiếp và vững chắc của cách mạng miền Nam.
Như vậy, một chế độ tay sai của đế quốc, đàn áp tôn giáo, giết hại man rợ chính đồng bào mình, chia rẽ dân tộc mình, để cho đế quốc tàn phá đất nước mình bằng bom đạn, bằng chất độc da cam, bị nhân dân nổi dậy chống lại, thì chỉ có kẻ bất lương mới coi chế độ ấy là tốt đẹp.
Một nền kinh tế yếu kém, lệ thuộc vào hàng viện trợ, tham nhũng tràn lan thì chỉ có kẻ không biết gì, hoặc nhắm mắt nói liều mới cho rằng đó là một nền kinh tế mạnh.
Một xã hội toàn máy chém giết người, phụ nữ bị binh lính cưỡng bức, người dân bị dồn vào ấp chiến lược để giam hãm, chắc chắn là một xã hội không có tự do, một xã hội man rợ.
Hòa bình, thống nhất là nền tảng phát triển cho Việt Nam
Sau giải phóng, vẫn có những giọng điệu cho rằng Chiến thắng 30/4 chẳng có giá trị, ý nghĩa gì trong thời kỳ mới.
Nhưng họ đã lầm, tinh thần Đại thắng mùa xuân năm 1975 là ý chí, niềm tin cháy bỏng và khát vọng thiêng liêng vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, vì độc lập tự do và thống nhất đất nước mà không tiếc máu xương, chiến đấu dũng cảm, ngoan cường quyết giành thắng lợi.
Đó là tinh thần vượt qua mọi gian nan, thử thách để vững bước tiến lên vì cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc.
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn mang theo ý chí ấy, tinh thần ấy, quyết tâm ấy vào công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển.
Chính tinh thần Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã hun đúc, tiếp lửa để ý Đảng, lòng dân hội tụ kết thành sức mạnh đưa công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa lên tầm cao mới.
Với môi trường chính trị ổn định, Việt Nam luôn được đánh giá là một trong những điểm đến an toàn, một điểm đầu tư hấp dẫn và hiệu quả của các doanh nghiệp nước ngoài.
Trang Business Insider của Mỹ xếp Việt Nam trong tốp 6 điểm du lịch an toàn nhất thế giới...
Hòa bình, ổn định chính trị, an ninh an toàn là lợi thế của Việt Nam so với nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Thành phố Hồ Chí Minh đổi mới, phát triển vượt bậc sau hơn 40 năm giải phóng. Ảnh: Hùng Khoa/ Báo Quân đội nhân dân |
Mặc dù suốt một thời gian dài bị ảnh hưởng không nhỏ bởi chính sách bao vây, cấm vận của Mỹ, nhưng tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 1986-2013 là 6,25%/năm, trong đó thời kỳ 1991-2005 lên tới 7,17%/năm.
Đến nay, kinh tế Việt Nam đang nổi lên tại châu Á như một điểm đầu tư lý tưởng với lợi thế về nguồn nhân lực trẻ và tốc độ tăng trưởng ấn tượng, đang được các tập đoàn lớn hàng đầu thế giới, như: Samsung, Intel, LG… rót nguồn vốn khổng lồ để xây chuỗi các nhà máy... Bloomberg tin rằng Việt Nam sẽ vươn lên trở thành “con hổ” về kinh tế tiếp theo tại châu Á.
Cùng với những bước tiến về kinh tế, đời sống của người dân Việt Nam ngày một khấm khá. Tạp chí The Economist đánh giá, Việt Nam sẽ là quốc gia có tốc độ tăng trưởng nhanh thứ ba khu vực châu Á-Thái Bình Dương về số người giàu mới nổi trong giai đoạn 2014-2020.
Theo tạp chí này, vào năm 2020, số lượng người giàu mới nổi của Việt Nam sẽ tăng gần 35% so với hiện nay.
Và rằng trong vòng hai thập kỷ tới, Việt Nam luôn là mảnh đất thuận lợi cho nhóm người giàu mới nổi tăng trưởng, trên nền tảng thu nhập và chi tiêu của người dân gia tăng ổn định, chính sách ổn định giá của Chính phủ…
Từ nhiều năm nay, Việt Nam luôn được xếp vào nhóm quốc gia đứng đầu thế giới về chỉ số hạnh phúc của người dân.
New Economics Foundation-một tổ chức nghiên cứu kinh tế-xã hội có trụ sở chính tại Vương quốc Anh, công bố hồi tháng 1-2018 rằng Việt Nam đang là nước xếp thứ 5 trên thế giới về chỉ số hạnh phúc (HPI).
Chỉ số này nhằm đánh giá những quốc gia mà ở đó niềm vui sống của người dân là cao nhất, người dân cảm thấy sống có ích, hài lòng về tuổi thọ, sự thịnh vượng và các vấn đề về môi trường.
Đáng lưu ý, Mỹ mặc dù là cường quốc có nền kinh tế đứng đầu thế giới, nhưng lại chỉ đứng thứ 108/140 quốc gia trong bảng xếp hạng này.
Công ty nghiên cứu thị trường hàng đầu thế giới Nielsen cũng vừa công bố hồi tháng 1/2018 rằng, Việt Nam lọt vào tốp 5 nước đứng đầu thế giới về mức độ lạc quan của người tiêu dùng.
Sự thật hiển nhiên trong quá khứ và hiện tại đã phủ định sự lừa phỉnh trong tuyệt vọng của những kẻ thiếu nhân tính, cố tô vẽ cho một bức tranh của chính quyền Sài Gòn trong quá khứ, hòng phủ nhận những thành quả của Việt Nam sau giải phóng.
Có thể khẳng định, mặc dù còn không ít khó khăn, thách thức nhưng Việt Nam đang dần trở thành một nước thịnh vượng và hạnh phúc.
Chính tinh thần, hào khí Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã cổ vũ, khích lệ, tiếp thêm nguồn động lực để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phấn khởi, hăng hái bước vào cuộc chiến đấu mới-cuộc chiến đấu chống nghèo nàn, lạc hậu, đưa đất nước phát triển, sánh ngang các nước tiên tiến khắp năm châu.
Với sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, có quyết tâm và nghị lực, với ý chí độc lập tự chủ và tinh thần năng động sáng tạo, Việt Nam đã chiến thắng trong chiến tranh và nhất định giành thắng lợi trong xây dựng hòa bình.