EMagazine

Giáo sư Trần Hồng Quân là người khởi sự công cuộc đổi mới cho giáo dục Việt Nam.

3 thập kỷ, thành tựu đổi mới GDĐH dưới thời cố GS Trần Hồng Quân còn nguyên giá trị

30/06/2025 06:25
Ngọc Mai
Theo dõi trên Google News

GDVN - Cố GS Trần Hồng Quân là vị tư lệnh của ngành giáo dục tạo nên những đổi mới, những bước đột phá ngoạn mục trong hệ thống giáo dục Việt Nam.

Tại cuộc họp Hội đồng Thi đua – Khen thưởng (Bộ Giáo dục và Đào tạo) quý II năm 2025 thông tin, Thường trực Hội đồng Thi đua – Khen thưởng đã đề xuất truy tặng danh hiệu Anh hùng Lao động cho cố Giáo sư, Tiến sĩ Trần Hồng Quân – nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo để ghi nhận những cống hiến to lớn của cố giáo sư đối với ngành giáo dục nước nhà.

Sau khi biết thông tin đề xuất trên qua các phương tiện truyền thông đại chúng, Tiến sĩ Lê Viết Khuyến - nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học (Bộ Giáo dục và Đào tạo; giai đoạn 1988-2007), hiện là Phó Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam không khỏi xúc động và tự hào bày tỏ: “Cố Giáo sư, Tiến sĩ Trần Hồng Quân là “nhà đổi mới trong giáo dục đại học”, Anh Quân xứng đáng với danh hiệu cao quý - Anh hùng Lao động”.

hu-nhat.png

“Trong tiến trình lịch sử, có nhiều tấm gương nhà giáo, nhà quản lý giáo dục lỗi lạc với nhiều đóng góp, nhưng có lẽ cố Giáo sư Trần Hồng Quân là vị tư lệnh của ngành giáo dục đầu tiên đã tạo nên những đổi mới, những bước đột phá ngoạn mục trong hệ thống giáo dục nói chung và giáo dục đại học Việt Nam nói riêng.

Chúng ta cần đánh giá đúng và công bằng về vai trò to lớn của cố Giáo sư Trần Hồng Quân gắn với sự nghiệp đổi mới giáo dục đại học Việt Nam. Và việc đề xuất truy tặng danh hiệu Anh hùng Lao động cho cố Giáo sư, Tiến sĩ Trần Hồng Quân là sự ghi nhận hoàn toàn xứng đáng đối với những tâm huyết, cống hiến của cố Giáo sư cho ngành giáo dục Việt Nam”, Tiến sĩ Lê Viết Khuyến chia sẻ.

Sinh thời, từ khi cố Giáo sư Trần Hồng Quân là Bộ trưởng Bộ Đại học, Trung học chuyên nghiệp và Dạy nghề đã lãnh đạo công cuộc đổi mới giáo dục đại học Việt Nam đạt nhiều kết quả đột phá. Trong công cuộc đổi mới ấy, Tiến sĩ Lê Viết Khuyến là người tham gia gần như từ đầu, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của cố Giáo sư Trần Hồng Quân. Do đó, Tiến sĩ Khuyến chứng kiến sự “thay da đổi thịt” một cách mạnh mẽ của hệ thống giáo dục đại học Việt Nam, trong đó nổi bật lên là những công lao to lớn của tư lệnh ngành giáo dục thời kỳ đổi mới ban đầu (1987 - 1997) - cố Giáo sư Trần Hồng Quân.

Theo dòng tâm sự của Tiến sĩ Lê Viết Khuyến, năm 1982, khi giáo dục đại học và chuyên nghiệp của Việt Nam đứng trên bờ vực thẳm, cố Giáo sư Trần Hồng Quân khi đó là Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh được Nhà nước bổ nhiệm giữ chức Bộ trưởng Bộ Đại học, Trung học chuyên nghiệp. Tiếp nhận vai trò mới trong bối cảnh đó, sự kiện mang tính bước ngoặt với cố Giáo sư Trần Hồng Quân là Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI vào cuối năm 1986 - một mốc son khởi đầu cho công cuộc đổi mới với quyết định thay đổi đường lối phát triển triển kinh tế-xã hội, chuyển từ phục vụ những yêu cầu của hoạt động trong nền kinh tế “kế hoạch hóa tập trung bao cấp” sang đáp ứng những yêu cầu và hoạt động trong “nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Dưới ánh sáng của Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI và các nghị quyết sau đó, hệ thống giáo dục đại học Việt Nam đã lần lượt tháo gỡ những ràng buộc, thoát khỏi sự trì trệ để phát triển. Chính trong dòng chảy chuyển mình ấy, vai trò của người dấn thân "vượt rào" từ trước đổi mới như cố Giáo sư Trần Hồng Quân trở nên đặc biệt quan trọng.

bac-khuyen.jpg
Tiến sĩ Lê Viết Khuyến - Phó Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam (Ảnh: Mộc Trà)

Người định hướng chiến lược để giáo dục đại học vượt qua cơn khủng hoảng

Trong giai đoạn đầu, cũng như trong quá trình thực hiện đổi mới giáo dục đại học Việt Nam, không ít những ý kiến cho rằng ngành giáo dục thiếu thận trọng, “nóng vội” khi thực hiện đổi mới. Nhưng thực chất việc đổi mới giáo dục khi đó là không thể chậm trễ trước cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội tác động, ảnh hưởng sâu sắc tới giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng.

Chia sẻ với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Khuyến cho biết, thời điểm đó, trước áp lực suy giảm quy mô tuyển sinh ở nhiều trường đại học, cố Giáo sư Trần Hồng Quân đã định hướng chiến lược và triển khai các giải pháp để kịp thời ứng cứu: trước hết là ngăn đà giảm quy mô, sau đó là thúc đẩy từng bước gia tăng quy mô đào tạo trở lại.

Điểm đột phá trong định hướng chiến lược của cố Giáo sư chính là việc xác lập 4 tiền đề quan trọng, tạo nền móng cho quá trình đổi mới giáo dục đại học Việt Nam:

Thứ nhất, đào tạo không chỉ đáp ứng nhu cầu của biên chế nhà nước và kinh tế quốc doanh mà còn phải đáp ứng nhu cầu của các thành phần kinh tế khác và đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân.

Thứ hai, đào tạo không chỉ dựa vào ngân sách Nhà nước mà còn phải dựa vào bất cứ các nguồn đầu tư, kinh phí khác có thể huy động được (đóng góp của các tổ chức kinh tế, xã hội, học phí, vốn tự có do nghiên cứu khoa học, lao động sản xuất, dịch vụ của các trường làm ra; hợp tác quốc tế…).

Thứ ba, đào tạo không chỉ theo kế hoạch tập trung như một bộ phận của kế hoạch kinh tế xã hội của nhà nước mà còn phải làm kế hoạch đào tạo theo những đơn đặt hàng, những xu thế dự báo, những yêu cầu học tập từ nhiều phía trong xã hội.

Thứ tư, đào tạo không phải gắn chặt với việc phân phối công tác của người tốt nghiệp.

Trên cơ sở 4 tiền đề đó, cố Giáo sư Trần Hồng Quân cùng đội tham mưu của mình đề ra 3 chương trình hành động - triển khai trong 3 năm học trong giai đoạn 1987 - 1990. Đây là những chủ trương đổi mới quan trọng ban đầu để “cứu nguy” cho giáo dục đại học, và cũng được coi như giải pháp cấp bách trong thời điểm đó.

Chương trình 1: Cải cách đào tạo nhằm thực hiện những đổi mới bước đầu về cơ cấu hệ thống, mục tiêu, nội dung, phương pháp và quy trình đào tạo, tạo điều kiện để mở rộng quy mô, ổn định và nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo, phù hợp với những yêu cầu kinh tế - xã hội trước mắt và lâu dài.

Chương trình 2: Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, lao động sản xuất cải thiện điều kiện vật chất kỹ thuật của đào tạo nhằm mở rộng sự liên kết giữa giáo dục – đào tạo với khoa học – kỹ thuật và sản xuất, kinh doanh, phát huy tính tích cực của nhà trường đem ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ vào thực tiễn, đồng thời tạo ra vốn tự có cho trường, cải thiện những điều kiện của đào tạo và cải thiện một phần đời sống của giáo viên và sinh viên.

Chương trình 3: Xây dựng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục; đổi mới công tác tổ chức, quản lý trong ngành, nhằm đổi mới và nâng cao chất lượng cán bộ giáo dục, cán bộ quản lý giáo dục, thực hiện dân chủ hóa nhà trường, tìm ra động lực tiến bộ của từng người, từng nhà trường.

Tiến sĩ Lê Viết Khuyến bày tỏ, sau khi triển khai các giải pháp tình thế thông qua ba chương trình hành động cụ thể, đến năm 1990, hệ thống giáo dục đại học Việt Nam đã từng bước được vực dậy. Trong đó, thành công lớn nhất là duy trì được sự tồn tại của mạng lưới các trường đại học, không để xảy ra tình trạng xóa sổ hàng loạt như đã từng xảy ra với khối trung học chuyên nghiệp và dạy nghề trong cùng thời kỳ.

Chưa kể, quy mô đào tạo đại học bắt đầu tăng trở lại sau nhiều năm liên tục suy giảm (giai đoạn 1980–1986 giảm trung bình 3% mỗi năm). Trong ba năm từ 1987 đến 1990, tổng số sinh viên tuyển mới đạt 81.500 ở hệ chính quy và 37.493 ở hệ mở rộng và tại chức – trong đó, mức tăng chủ yếu đến từ hệ đào tạo mở rộng. Riêng hệ chuẩn, chỉ tiêu tuyển sinh hằng năm cũng đã tăng đáng kể: từ 21.730 sinh viên năm 1987 lên 31.065 vào năm 1990. Đáng chú ý, tuy chỉ tiêu là một, nhưng chia theo hai diện: sinh viên được cấp học bổng và sinh viên đóng học phí – trong bối cảnh ngân sách đầu tư của Nhà nước còn hết sức eo hẹp.

Bên cạnh đó còn mang lại thay đổi tích cực trong nhận thức và hành vi của sinh viên: học tập chủ động hơn, nỗ lực nhiều hơn; đồng thời gia đình cũng thể hiện sự quan tâm sát sao hơn đến việc học của con em.

gs-th-quan-7505.jpg
Cố Giáo sư Trần Hồng Quân là người khởi sự công cuộc đổi mới cho giáo dục Việt Nam (Ảnh: Thùy Linh)

“Dưới sự chỉ đạo của cố Giáo sư Trần Hồng Quân, giáo dục đại học, từ chỗ "tự cứu mình", đã từng bước “chạy đúng hướng” và đạt được những thành công nền tảng. Chính từ những bài học kinh nghiệm quý giá trong giai đoạn này, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã ban hành Nghị quyết số 04 (năm 1993) về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Trước đó, Đại hội VII cũng khẳng định rõ quan điểm: "Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo được xác định là quốc sách hàng đầu"”, Tiến sĩ Lê Viết Khuyến thông tin.

Ổn định lại cả hệ thống giáo dục đại học

Cũng theo chia sẻ của Tiến sĩ Lê Viết Khuyến, từ năm học 1992-1993, giáo dục đại học Việt Nam chuyển trọng tâm từ đổi mới quy trình đào tạo sang cải cách mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo. Cố Giáo sư Trần Hồng Quân đã chỉ đạo triển khai hàng loạt các giải pháp quan trọng nhằm giúp cho giáo dục đại học Việt Nam thích ứng nhanh với việc chuyển đổi qua kinh tế thị trường, tiếp cận nhanh với giáo dục đại học quốc tế.

Đến năm 1994, giáo dục đại học bắt đầu chuyển sang chú trọng về bảo đảm chất lượng. Cố Giáo sư Trần Hồng Quân yêu cầu toàn ngành giáo dục đại học cần tập trung giải quyết dứt điểm bài toán then chốt: làm sao hài hòa giữa chất lượng và số lượng, đồng thời cân đối giữa các loại hình đào tạo. Mục tiêu cuối cùng là tiến tới một hệ thống giáo dục đại học chuẩn hóa, trong đó mỗi cấp học chỉ có một chuẩn chất lượng và một loại văn bằng duy nhất.

Về chương trình đào tạo, cố Giáo sư chỉ rõ định hướng phải phấn đấu để sớm đạt được trình độ tương đương với giáo dục đại học của các nước trong khu vực – trước hết là về khoa học cơ bản, đặc biệt là phần lý thuyết – đồng thời từng bước nâng cao năng lực về khoa học thực nghiệm và công nghệ; nhấn mạnh nguyên tắc một cấp học chỉ có một chuẩn chất lượng, một loại bằng tốt nghiệp. Chuẩn chất lượng đó được xác định là chuẩn tối thiểu bắt buộc.

Liên quan đến mở rộng quy mô đào tạo, cố Giáo sư kiên quyết không chấp nhận việc tiếp tục mở rộng đại học theo cách làm trước đây của mô hình “đại học mở rộng”, vốn bị xem là thiếu kiểm soát về chất lượng. Thay vào đó, cố Giáo sư yêu cầu ngành cần có những bước đi bài bản, bền vững hơn.

Đặc biệt, với tầm nhìn chiến lược về bảo đảm chất lượng, cố Giáo sư đã chỉ thị các đơn vị chức năng khẩn trương xây dựng một hệ thống đầy đủ và chuyên nghiệp về kiểm định chất lượng giáo dục. Hệ thống này phải bao gồm cả quy trình tự đánh giá nội bộ của các cơ sở đào tạo và quy trình đánh giá độc lập từ bên ngoài, một nền tảng thiết yếu để kiểm soát và nâng cao chất lượng trong toàn hệ thống giáo dục đại học.

Sau 3 thập kỷ, thành tựu đổi mới giáo dục đại học thời cố GS Trần Hồng Quân vẫn còn nguyên giá trị

Nhìn lại chặng đường đổi mới giáo dục đại học, Tiến sĩ Lê Viết Khuyến nhận định rằng, giai đoạn 1987-1997 là thời kỳ sôi động nhất, đột phá nhất của giáo dục đại học Việt Nam gắn với những thành tựu nổi bật mang đậm dấu ấn của cố Giáo sư Trần Hồng Quân cùng đội ngũ cộng sự.

Thành tựu đầu tiên phải kể đến là chuyển đổi hệ thống giáo dục đại học Việt Nam từ mô hình Liên Xô cũ sang mô hình mới phù hợp với nền kinh tế nhiều thành phần, hội nhập quốc tế. Nghị định số 90/CP ngày 24/11/1993 của Chính phủ quy định cơ cấu khung của hệ thống giáo dục quốc dân, hệ thống văn bằng, chứng chỉ về giáo dục và đào tạo của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nêu, ở bậc giáo dục đại học có 4 trình độ gồm: cao đẳng, cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ; điểm mới là có 2 cấp đào tạo sau đại học và đồng bộ với nhau. Việc đào tạo có thể tiến hành theo hình thức tập trung/không tập trung nhưng chỉ có một chuẩn chất lượng về văn bằng. Đến nay, hệ thống giáo dục đại học của Việt Nam vẫn được duy trì và hoàn toàn phù hợp với hệ thống giáo dục đại học của phần đa quốc gia trên thế giới.

Một trong những thành tựu gắn với cố Giáo sư Trần Hồng Quân là đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp đào tạo đại học; cấu trúc lại nội dung đào tạo của bậc đại học theo mô hình giáo dục đại học khai phóng, gắn chặt với yêu cầu phát triển đất nước, phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại.

“Trước đây, mục tiêu đào tạo đại học nhằm phục vụ nền kinh tế bao cấp. Còn khi đổi mới, mục tiêu đào tạo đại học chuyển sang đào tạo phù hợp với nền kinh tế thị trường và mở cửa.

Cụ thể, từ năm 1992, Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương sắp xếp các chương trình đào tạo đại học và cao đẳng trên cơ sở chính thức quy định cấu trúc và khối lượng nội dung bậc đại học dựa trên những quan niệm mới phù hợp với những định hướng về mục tiêu đào tạo con người mới Xã hội Chủ nghĩa đã được khẳng định tại các Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc, với sự chuyển đổi kinh tế xã hội của đất nước, đồng thời tạo tiền đề để tiến tới sự tương đương văn bằng đại học với các nước trong khu vực”, Tiến sĩ Khuyến chia sẻ.

Thành tựu nổi bật tiếp theo được Tiến sĩ Lê Viết Khuyến nêu ra là triển khai quy trình đào tạo mới - đào tạo theo diện rộng, phân chia quá trình đào tạo đại học thành 2 giai đoạn, áp dụng một học chế mềm dẻo theo nguyên tắc tích lũy kiến thức, nâng cao tính chủ động và phát huy sở trường của từng cá nhân người học.

Ngày 12/9/1995, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ký Quyết định 3244/GD-ĐT ban hành tạm thời bộ chương trình mẫu về giáo dục đại học đại cương (giai đoạn I) dùng trong các trường đại học và các trường cao đẳng sư phạm. Ngày 14/10/1995, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy chế về tổ chức đào tạo, kiểm tra, thi và công nhận tốt nghiệp cho các hệ đào tạo đại học và cao đẳng chính quy tại Quyết định số 3968/GD-ĐT. Theo Tiến sĩ Khuyến, với những chủ trương trên và nếu như việc tuyển sinh đại học, cao đẳng được thực hiện đúng theo chương trình mẫu (không phải theo ngành học như trước đây) thì vấn đề liên thông chuyển đổi sinh viên giữa các trường và giữa các nhóm chương trình đào tạo cũng như việc ổn định hoạt động cho các cụm trường liên kết tổ chức theo từng địa phương (trong đó có các trường sư phạm) về cơ bản đã được giải quyết. Hơn nữa, nếu làm đúng quy định, thì ngay từ năm học 1995-1996, Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống giáo dục đại học mở. Sau này, mục tiêu xây dựng hệ thống giáo dục đại học mở cũng được nhắc đến tại Nghị quyết 29 và Luật Giáo dục sửa đổi 2019.

Ngoài ra, đóng góp to lớn nhờ vào chỉ đạo trực tiếp của cố Giáo sư Trần Hồng Quân là vận dụng quy trình đào tạo mới và chương trình giáo dục đại học đại cương để triển khai thành công chủ trương “đại học hóa” cho hệ thống các trường đào tạo theo chức danh (công an, quân đội), các trường của hệ thống chính trị - đoàn thể (tuyên huấn, công đoàn, thanh niên, phụ nữ) và các trường nghiệp vụ (kiểm sát, tòa án).

Việc sắp xếp lại mạng lưới các trường đại học, cao đẳng cũng là một thành tựu nổi bật dưới sự chỉ đạo trực tiếp của cố Giáo sư Trần Hồng Quân. Thời điểm đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chủ trương bố trí lại mạng lưới trường đại học, cao đẳng theo hướng hình thành 3 loại trường cơ bản: Viện đại học đa lĩnh vực, trường đại học/cao đẳng chuyên ngành và trường cao đẳng cộng đồng/đại học địa phương. Mạng lưới mới có tác dụng mở rộng đào tạo và bồi dưỡng nhân lực có trình độ cao, nâng cao dân trí, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, khoa học của từng vùng trên cả nước.

Thiếu giáo viên cho hệ thống giáo dục phổ thông là vấn đề nhức nhối của ngành giáo dục trong nhiều thập kỷ. Và vấn đề này cũng được cố Giáo sư Trần Hồng Quân nhấn mạnh tại Hội nghị chuyên đề “Quy trình đào tạo mới trong các trường đại học” vào tháng 10/1990: dù trong hoàn cảnh nào đi nữa thì đội ngũ giáo viên vẫn bám trường, bám lớp để duy trì hệ thống giáo dục phổ thông. Nhưng sự đối xử của xã hội đối với giáo viên phổ thông không thỏa đáng. Để giải quyết vấn đề trên, cố Giáo sư cho rằng cần thay đổi quan niệm: Các trường sư phạm không nên chỉ đào tạo giáo viên phổ thông và giáo viên phổ thông không nên chỉ được đào tạo ở các trường sư phạm. Bên cạnh đó, một số loại hình giáo viên phổ thông nên được đào tạo ở các trường đại học kỹ thuật, văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao… Theo hướng này, ngành cần sớm thành lập ở những trường đó các khoa, bộ môn sư phạm.

Không thể không kể đến thành tựu của hệ thống giáo dục Việt Nam gắn với cố Giáo sư Trần Hồng Quân là chuyển các trường trung học chuyên nghiệp đủ điều kiện lên cao đẳng, đặt tiền đề cho sự phân luồng sinh viên ở bậc giáo dục đại học. Theo chia sẻ của Tiến sĩ Lê Viết Khuyến, trước nhu cầu cần có kỹ thuật viên trình độ cao, cố Giáo sư Trần Hồng Quân đã chỉ đạo tại Hội nghị Giáo dục đại học năm 1993 về việc cần xác định mục tiêu và nội dung, chương trình đào tạo kỹ thuật viên và nhanh chóng chuyển những trường trung học chuyên nghiệp mạnh lên bậc cao đẳng.

“Với chủ trương này, có hàng trăm trường đã được nâng cấp từ trường trung học chuyên nghiệp trở thành trường cao đẳng, đáp ứng yêu cầu đào tạo nhân lực kỹ thuật viên trình độ cao cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là tiền đề để sau này hình thành trong hệ thống giáo dục quốc dân luồng giáo dục đại học chuyên nghiệp/công nghệ/ứng dụng bên cạnh luồng giáo dục đại học định hướng nghiên cứu/học thuật đã có từ trước”, Tiến sĩ Lê Viết Khuyến chia sẻ.

Cố Giáo sư Trần Hồng Quân cũng là người đặt nền móng hình thành hệ thống giáo dục đại học ngoài công lập, thúc đẩy xã hội hóa giáo dục. Trong thời gian cố Giáo sư đương nhiệm, các quy chế đầu tiên về các loại hình trường đại học dân lập, bán công và tư thục đã lần lượt được xây dựng và ban hành, tạo căn cứ pháp lý cho sự ra đời của hàng loạt các trường đại học ngoài công lập. Ngoài ra, ở thời gian này cũng ra đời loại trường trực thuộc các tập đoàn kinh tế nhà nước (ví dụ như Học viện Công nghệ Bưu chính - Viễn thông trực thuộc Tập đoàn Bưu chính Viễn thông trước đây).

Một thành tựu nổi bật khác phải nhắc đến là việc duy trì và mở rộng quy mô đào tạo đại học. Năm 1993, cố Giáo sư Trần Hồng Quân đã chỉ đạo triển khai giải pháp cho các trường đại học và cao đẳng được chủ động đề xuất chỉ tiêu tuyển sinh tối đa; xây dựng và phát triển hệ thống trường đại học mở.

Thêm nữa, dưới thời cố Giáo sư Trần Hồng Quân là tư lệnh ngành giáo dục Việt Nam đã triển khai quá trình dân chủ hóa trong sinh hoạt nhà trường, tăng cường quyền tự chủ của các trường về mặt quản lý. Ngay từ những năm đầu đổi mới, việc bầu hiệu trưởng đã được thực hiện, tạo sự thay đổi mạnh mẽ và sâu sắc trong sinh hoạt nhà trường. Cùng với đó là chủ trương xóa bỏ việc bổ nhiệm thủ trưởng không thời hạn, thực hiện nhiệm kỳ hóa chức vụ hiệu trưởng. Hiệu quả của chủ trương này được thể hiện rất rõ khi có không ít trường sau khi bầu hiệu trưởng đã tạo được những thay đổi sâu sắc, toàn diện và nhận được sự công nhận của xã hội.

“Dưới ánh sáng của công cuộc đổi mới đất nước được khởi sắc, cố Giáo sư Trần Hồng Quân là người đặt nền móng cho sự chuyển mình mạnh mẽ của giáo dục đại học Việt Nam. Việc tri ân đối với một nhà cải cách kiệt xuất cũng là lời nhắc nhớ sâu sắc về một thời kỳ khởi nguyên đầy dấn thân, tầm nhìn và những quyết sách vượt thời đại của cố Giáo sư. Sự nghiệp mà cố Giáo sư để lại vẫn tiếp tục được tiếp thu và vận dụng cho giáo dục nước nhà hôm nay và mai sau. Và cũng từ những thành tựu ấy, xã hội đặt kỳ vọng sẽ tiếp tục có những đột phá mới cho ngành giáo dục trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam”, Tiến sĩ Lê Viết Khuyến chia sẻ.

Ngọc Mai