Hiện tại, đôi khi P-15 Termit còn được gọi là Rubezh trong quân đội Nga. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã mua lại thiết kế năm 1958 và đã tạo ra các phiên bản là: HY-1, SY-1 và FL-1. |
Mặc dù có kích thước lớn nhưng hàng ngàn tên lửa P-15 đã được chế tạo để gắn trên nhiều lớp tàu chiến cũng các bệ phóng trên đất liền và thậm chí được thả từ máy bay. P-15 khá thành công trong các cuộc xung đột mà nó được mang ra sử dụng. |
Phiên bản đầu tiên của P-15 có cánh cố định. Thiết kế cơ bản của tên lửa là thân hình trụ, mũi tròn, hai cánh tam giác ở giữa hai bên thân và ba đuôi định hướng xếp thành hình tam giác. Ngoài ra nó còn một khoang nhiên liệu rắn để sử dụng trong quá trình tăng tốc. |
Thiết kế này lấy từ mẫu tiêm kích thử nghiệm Yak-1000 năm 1951. Loại tên lửa này phải đáp ứng được tiêu chí rẻ, có thể triển khai trên các tàu tên lửa thông thông thường. Các thiết bị điện tử trong tên lửa dựa trên thiết kế tín hiệu đơn giản với một cảm biến ra đa quét hình nón. |
Trọng lượng của tên lửa là 2.340 kg, tốc độ tối đa là 0,9 mach và tầm hoạt động là 40 km. Đầu đạn nổ phía sau thùng nhiên liệu, để khi đâm vào mục tiêu các nhiên liệu chưa cháy hết sẽ cộng hưởng với thuốc nổ để công phá mục tiêu, kể cả khi nhiêu liệu đã dùng hết thì thùng nhiên liệu vẫn đóng vai trò bắt cháy mục tiêu với lượng khí dễ bắt cháy còn lại trong thùng nhiên liệu. |
Đầu đạn P-15 Termit hình phễu nặng 500 kg, lớn hơn các đầu đạn chống hạm thông thường khác. Việc phóng thường được sự hỗ trợ của hệ thống hỗ trợ tác chiến điện tử với ra đa Garpun gắn trên tên lửa để tìm mục tiêu trong khoảng cách 5,5 đến 27 km tùy vào thuộc tính của mục tiêu. Ra đa Garpun có thể dò ra và tiêu diệt một khu trục hạm trong khoảng cách 20 km. |
P-15/P-20 Termit |
P-15/P-20 Termit |
P-15/P-20 Termit |
P-15/P-20 Termit |
P-15/P-20 Termit |
P-15/P-20 Termit |