Nghi vấn giả mạo hợp đồng
Dư luận huyện Giao Thủy, cũng như tỉnh Nam Định đang rất quan tâm đến vụ án "Tranh chấp hợp đồng vay tài sản" dân sự giữa nguyên đơn là bà Vũ Thị Vi (SN 1967) trú tại tổ dân phố 3, thị trấn Ngô Đồng, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định; bị đơn là vợ chồng ông Mai Văn Lưu (SN 1953) và bà Trần Thị Oanh (SN 1958) đều trú tại, tổ dân phố 5B, thị trấn Ngô Đồng, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định.
Theo đó, bà Vi khởi kiện vợ chồng ông Lưu, bà Oanh ra Tòa án nhân dân huyện Giao Thủy (TAND huyện Giao Thủy) với số tiền gốc của hai hợp đồng trước đó vợ chồng ông Lưu và bà Oanh vay là hơn 2,3 tỷ đồng (con số đã được làm tròn) tương đương 956 chỉ vàng 9999 tại thời điểm cho vay (theo quy đổi trong hợp đồng Tòa thụ lý vụ án).
Sau nhiều phiên xét xử, ngày 13/07/2015 TAND huyện Giao Thủy đã quyết định Bản án số 02/2015/2015/DS - ST về vụ án dân sự "Tranh chấp hợp đồng vay tài sản" giữa nguyên đơn là bà Vũ Thị Vi; bị đơn là vợ chồng ông Mai Văn Lưu (SN 1953) và bà Trần Thị Oanh (SN 1958).
Phiên tòa sơ thẩm hôm 13/7/2015. Ảnh Phan Thiên |
Tại bản án này, TAND huyện Giao Thủy quyết định: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Vũ Thị Vi. Buộc vợ chồng bà Trần Thị Oanh, ông Mai Văn Lưu có nghĩa vụ thanh toán cho bà Vi số tiền gốc tại hợp đồng vay tài sản ký kết ngày 11/10/2009 là hơn 1,5 tỷ1,5đồng; số tiền lãi là gần 600 triệu đồng và số tiền gốc theo giấy biên nhận ngày 10/6/2009 là gần 400 triệu đồng; số tiền lãi là hơn 100 triệu đồng tổng cộng tiền gốc là: gần 2 tỷ đồng; lãi là hơn 700 triệu đồng.
Tuy nhiên, bên phía bị đơn là ông Mai Văn Lưu và bà Trần Thị Oanh đã không đồng ý với quyết định này của TAND huyện Giao Thủy. Ông Lưu cho rằng, TAND huyện Giao Thủy đã cố tình vẽ đường cho nguyên đơn để đòi tiền khống gia đình ông.
Cụ thể, theo ông Lưu trình bày, do công việc làm ăn, nên vợ chồng ông có vay tiền của bà Vũ Thị Vi. Tuy nhiên, tất cả những lần vay tiền đó đã được vợ chồng ông thanh toán đầy đủ cả gốc và lãi cho bà Vi.
Cuối năm 2009, một người bạn của bà Oanh (vợ ông Lưu) là bà Trần Thị Vui ở Hà Nội, nhờ vay hộ tiền để kinh doanh. Vợ chồng ông Lưu hỏi và được bà Vi đồng ý cho vay hơn 1,5 tỉ đồng.
Ngày 11.10.2009, 3 bên lập hợp đồng vay số tiền trên với thời hạn vay 2 tháng. Trong đó, vợ chồng ông Lưu, bà Oanh đứng ra nhận vay của bà Vi. Sau 2 tháng, ngày 10.12.2009, có mặt cả 3 người, bà Vui đã trả đủ cho bà Oanh, để trả bà Vi cả gốc và lãi.
Bảng diễn giải của 3 người (bà Vi, bà Vui, bà Oanh) để chuyển số tiền bà Oanh vay của bà Vi sang mua nhà chung cư |
Ngay sau đó, bà Vi nhờ bà Vui dùng số tiền trên để mua trả góp 2 căn hộ chung cư của Tập đoàn Nam Cường tại Hà Nội. Quá trình vay và trả tiền trên được chính bà Vi lập bảng diễn giải chi tiết và ký tên, bảng diễn giải này đã được Viện khoa học hình sự, Bộ Công an xác định là đúng chữ của bà vi ở dưới cuối trang giấy.
“Khoảng đầu tháng 2/2014, bất ngờ bà Vi đến nhà tôi đòi nợ gần 4 tỉ đồng. Vợ chồng tôi rất giật mình vì số tiền đó không biết bà Vi móc ở đâu ra. Không những đòi tiền trắng trợn, bà Vi còn cho cả mẹ đẻ, anh em họ hàng, rồi cả đầu gấu đến nhà tôi để đòi nợ. Mặc dù, số tiền trước đó nợ chúng tôi đã trả đủ cả gốc và lãi cho bà Vi”. ông Lưu cho biết.
Ông Lưu cho biết thêm bản hợp đồng thật mà gia đình ông giữ là bản hợp đồng có 02 tờ riêng biệt, các chữ viết vào các khoản trong bản hợp đồng tại trang 1, trang 2, chữ ký và chữ viết Trần Thị Oanh bên vay tại trang 3 và dòng chữ: "Ngày 16 tháng 10 năm 2009 tôi đã nhận đủ số tiền theo hợp động", có chữ ký kèm theo tại trang 4 là do một người viết là bà Trân Thị Oanh; và thời hạn cho vay là 02 tháng.
Tuy nhiên, bản hợp đồng bà Vi gửi cho Tòa thì khác, đặc biệt về thời hạn phải trả trong hợp đồng của bà Vi là không thời hạn. "Nhưng khi tôi trình bày với Tòa về dấu hiệu giả mạo hợp đồng vay tiền này nhưng đều bị Tòa bác bỏ" ông Lưu bức xúc.
TAND huyện Giao Thủy vi phạm luật tố tụng dân sự
Sau khi xem xét các tài liệu chứng cứ và kiểm sát bản án sơ thẩm, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định thấy bản án nếu trên có một số vi phạm nghiêm trọng như sau:
1. Trong vụ án có nhiều mâu thuẫn giữa lời khai của bà Vũ Thị Vi và bà Trần Thị Oanh, ông Mai Văn Lưu nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không tiến hành đối chất để làm rõ bản chất vụ án là vi phạm điều 88 bộ luật tố tụng dân sự.
Theo bà Vũ thị Vi khai số tiền 810.000.000 đồng bản chất là sự chuyển đổi của hai giấy biên nhận ngày 8/6/2009 (Số tiền 240 triệu đồng) và ngày 10/6/2009 (số tiền là 390 triệu đồng) có chữ ký của bà Oanh trừ đi 7.850.000 đồng tiền bà Oanh đã trả, còn lại 802.150.000 đồng, nên ngày 19/4/2010 bà Vi cùng bà Oanh đã chốt nợ số tiền hơn 800 triệu đồng và lập thành văn bản có chữ ký của bà Oanh; số tiền hơn 1,5 tỷ đồng bà cho vợ chồng ông Lưu và bà Oanh vay có chữ ký của hai vợ chồng, nay yêu cầu bà oanh, ông Lưu phải trả.
Còn theo bà Oanh và Ông Lưu khai thì họ đã trả hai khoản nợ 420 triệu và 390 triệu cho bà Vi rồi (Có giấy biên nhận tiền ngày 7/5/2011 của bà Vũ Thị Vi); khoản nợ hơn 1,5 tỷ đồng bà Oanh cũng khẳng định đã trả bà Vi bằng việc chuyển tiền mua chung cư...Như vậy là có mâu thuẫn giữa lời khai của bà Vi và bà Oanh, ông Lưu nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại không cho đối chất giữa những người này để làm rõ bản chất vụ án đã đưa ra xét xử là vi phạm Điều 88 bộ luật tố tụng dân sự.
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định đã chỉ ra mốt số sai sót, vi phạm nghiêm trọng của TAND huyện Giao Thủy. |
2. Bỏ sót người tham gia tố tụng.
Do hợp đồng ngày 19/4/210 xuất phát từ hai giấy biên nhận ngày 8/6/2009 và ngày 10/6/2009, trong đó giấy biên nhận ngày 08/6/2009 có liên quan đến bà Nguyễn Thị Thành nhưng tòa án cấp sơ thẩm đã không đưa bà Thành vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Như vậy bản án đã bỏ sót người tham gia tố tụng.
3. Việc tính lãi suất không đủ cơ sơ.
Tại hợp đồng ngày 11/10/2009 bà Vũ Thị Vi cho vợ chồng ông Mai Văn Lưu và bà Trần Thị Oanh vay số tiền hơn 1,5 tỷ đồng, quy đổi ra vàng bằng 651 chỉ vàng 9999 với lãi suất 15 triệu đồng/ tháng kể từ ngày 11/10/2009. Hợp đồng không ghi thời hạn cho vay nhưng có ghi khi nào bên A (bên bà Vi) cần rút vốn thì báo trước cho bên B (ông Lưu, bà Oanh) 10 ngày.
Tại hợp đồng ngày 06/3/2010 (tức ngày 19/4/2010 dương lịch) bà Vũ Thị Vi cho bà Oanh, ông Lưu vay hơn 800 triệu đồng quy đổi ra vàng bằng 305 chỉ vàng 9999. Điều II của hợp đồng có ghi: Lãi suất 10.000.000 đồng/tháng x 3 tháng = 30.000.000 đồng kể từ ngày 19/4/2010. Trường hợp bên A cần rút vốn thì báo trước 10 ngày (Hợp đồng có chữ ký của bà Vi, bà Oanh, không có chữ ký của ông Lưu).
Theo nội dung của bản hợp đồng thì bà Oanh trả lãi hàng tháng nhưng bà Oanh không trả, đến ngày 19/2/2014 bà Vi mới có đơn khởi kiện ra TAND huyện Giao Thủy. Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 23 nghị quyết 03/2012 ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao quy định về thời hiệu khởi kiện thì đã hết thời hiệu khởi kiện đối với các khoản lãi mà bà Vi yêu cầu. Do vậy khoản tiền lãi hơn 700 triệu đồng bản án buộc bà Oanh, ông Lưu trả là không có cơ sở.
4. Bản án buộc cả ông Lưu phải trả trả nợ khoản nợ gốc gần 400 triệu đồng và lãi hơn 100 triệu đồng là không có cơ sở.
Tại giấy biên nhận ngày 10/6/2009 và hợp đồng ngày 19/4/2010 chỉ có chữ ký nhận nợ của mình bà oanh. Không có chữ ký của ông Lưu, mặt khác ông Lưu khai không biết khoản vay này nhưng bản án đã quyết định buộc cả ông Mai Văn Lưu có nghĩa vụ thanh toán cho bà Vi số tiền gốc gần 400 triệu đồng và lãi hơn 100 triệu đồng là không có cơ sở.
Ngày 24/9 tới đây, Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định sẽ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”, liệu những chứng cứ của gia đình nhà ông Lưu, bà Oanh có được Tòa xem xét. Những lập luận phản bác của Viện kiểm soát nhân dân tỉnh Nam Định có giúp gia đình ông Lưu, bà Oanh lấy lại trong sạch.