Đợt bùng phát lần thứ tư của dịch bệnh COVID-19 tại Việt Nam đã và đang gây ra những hậu quả hết sức nặng nề, đặc biệt tại những vùng tâm dịch như Bắc Ninh, Bắc Giang, và mới đây nhất là Thành phố Hồ Chí Minh. Cả hệ thống chính trị đang gồng mình chống dịch để đảm bảo mục tiêu kép.
Hơn bao giờ hết, chiến lược mới 5K + vắc-xin đang là hướng đi đúng và trúng, trong đó việc xét nghiệm nhanh có vai trò tiên quyết trong việc sàng lọc, phát hiện sớm mầm bệnh trong cộng đồng và các khu vực cách ly, phong toả để giúp các lực lượng chống dịch đưa ra những đối sách kịp thời, hiệu quả trong kiểm soát dịch bệnh.
Trong thời gian gần đây, các bộ kit xét nghiệm nhanh kháng nguyên COVID-19 đang dần được sử dụng rộng rãi hơn so với xét nghiệm nhanh kháng thể do tính ưu việt của phương pháp này.
Nhân viên y tế lấy mẫu xét nghiệm. Ảnh minh họa: Báo Lao động |
Với thao tác đơn giản, thuận lợi và không cần hệ thống thiết bị phức tạp đi kèm, xét nghiệm nhanh kháng nguyên có thể tìm ra các trường hợp dương tính SARS-CoV-2 nhanh hơn, sớm hơn ngay từ giai đoạn mới nhiễm thay vì phải chờ phơi nhiễm 7-10 ngày như xét nghiệm phát hiện kháng thể, do đó xét nghiệm này có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược sàng lọc đại trà ở thời điểm hiện nay.
Thời gian đầu khi dịch bệnh COVID-19 mới bùng phát trên quy mô toàn cầu, Tổ chức Y tế Thế giới đã đánh giá và đưa vào danh sách sử dụng khẩn cấp (EUL) một số sản phẩm xét nghiệm nhanh kháng nguyên SARS-CoV-2 (đầu tiên là 2 sản phẩm do Hoa Kỳ và Hàn Quốc nghiên cứu và sản xuất), và tới nay danh sách này đang ngày một dài hơn với các bộ kit chất lượng cao có nguồn gốc từ nhiều quốc gia, nhưng đáng tiếc vẫn thiếu sự góp mặt của các nhà sản xuất Việt Nam.
Về giá cả, các bộ kit xét nghiệm nhanh kháng nguyên của nước ngoài cũng ngày càng hợp lý hơn, tạo điều kiện tiếp cận rộng rãi và bình đẳng cho các quốc gia, trong đó có cả các nước đang phát triển như Việt Nam.
Trước hết, phải khẳng định chủ trương ưu tiên phát triển và sử dụng hàng Việt Nam (bao gồm các sản phẩm xét nghiệm RT-PCR, xét nghiệm nhanh và vắc-xin) trong phòng chống dịch bệnh COVID-19 là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn. Song cần phải sớm có những đánh giá, tính toán, cân nhắc thấu đáo về hiệu quả của các bộ kít xét nghiệm.
Dù được tạo điều kiện tối đa, nhưng đến nay cũng chưa có bằng chứng để khẳng định các sản phẩm xét nghiệm nhanh trong nước có chất lượng tương đương với các sản phẩm nhập khẩu cùng loại, đặc biệt là các sản phẩm đã được WHO công nhận, giới thiệu.
Thực tế, kể cả các xét nghiệm RT-PCR trong nước cũng đã nhiều lần cho kết quả không chính xác, có những trường hợp xét nghiệm nhiều lần âm tính trong khu cách ly, cuối cùng lại thành dương tính khi đã về với cộng đồng, gây lo lắng cho dư luận xã hội và đặt các lực lượng phòng chống dịch vào thế bị động (ví dụ như trường hợp bệnh nhân 2899 tại Hà Nam, sau khi từ nước ngoài về cách ly đủ 14 ngày và 3 lần xét nghiệm âm tính nhưng đến nhiều ngày sau lại được phát hiện dương tính với SAR-Cov-2).
Các phương tiện truyền thông cũng đăng tải không ít trường hợp kết quả xét nghiệm thay đổi liên tục khiến bản thân người được xét nghiệm và cơ quan, tổ chức, cộng đồng cư dân nơi họ ở, làm việc của họ lo lắng. Nó gây ra những xáo trộn không đáng có, dẫn tới lãng phí về nguồn lực phòng chống dịch vốn đang rất thiếu thốn.
Đơn cử, chỉ cần một trường hợp bị xác định “dương tính giả” cũng sẽ kéo theo biết bao nhân lực y tế, phương tiện, thiết bị, hệ thống điều tra dịch tễ, truy vết, cách ly… phải vào cuộc.
Khi phát hiện chỉ là “dương tính giả” thì nhiều khi cũng đã muộn, người bị nghi nhiễm đã bị đưa vào nơi cách ly điều trị, đối mặt với nguy cơ “dương tính thật” do lây nhiễm chéo từ các bệnh nhân khác.
Ở chiều ngược lại, do độ chính xác không cao của một số sản phẩm xét nghiệm nhanh có thể dẫn tới trường hợp “âm tính giả”, dẫn đến tâm lý chủ quan, làm lây lan dịch bệnh dẫn tới mất kiểm soát.
Vì những lý do trên, thiết nghĩ rất cần sự vào cuộc mạnh mẽ, quyết liệt hơn của các cơ quan quản lý nhà nước, đặc biệt là Bộ Y tế trong việc hướng dẫn, hỗ trợ, đánh giá, xác nhận hiệu quả sử dụng của các sản phẩm xét nghiệm nhanh có nguồn gốc cả trong nước và nước ngoài, chỉ chấp nhận đưa vào sử dụng các sản phẩm có độ nhạy, độ đặc hiệu, độ chính xác cao với đầy đủ bằng chứng khoa học.
Tốt nhất nên khuyến khích các doanh nghiệp nghiên cứu, sản xuất các sản phẩm này đăng ký để được WHO đánh giá, cấp phép hoặc khuyến nghị sử dụng trước khi đưa vào áp dụng đại trà tại Việt Nam.
Về giá thành sản phẩm, có thông tin cho rằng kit xét nghiệm kháng nguyên nhanh sản xuất trong nước rẻ bằng 1/3 so với sản phẩm nhập khẩu.
Điều này cần được phân tích, đánh giá lại thấu đáo, bởi theo thông tin từ nhiều nguồn công khai, một bộ kit kháng nguyên trong nước có giá trung bình dao động trong khoảng 135.000 đồng trở lên, phổ biến ở mức giá 150.000 – 160.000 đồng. Đây là mức giá không thấp hơn nhiều, thậm chí chỉ ngang bằng so với một số sản phẩm nhập khẩu, chưa nói tới vấn đề chất lượng, vốn phải được coi là tiêu chí số một trong những vấn đề liên quan đến sức khoẻ con người.
Mới đây, Bộ Y tế đã có cách tiếp cận rất chặt chẽ và khoa học trước đề nghị được cấp phép sử dụng khẩn cấp của một doanh nghiệp nghiên cứu vắc-xin phòng chống COVID-19 trong nước, nhận được sự đồng tình của giới chuyên môn và nhân dân cả nước.
Dù khuyến khích, tạo điều kiện hết sức cho các đơn vị nghiên cứu và phát triển trong nước, nhưng điều kiện tiên quyết là sản phẩm phảiđủ chứng cứ khoa học, lâm sàng.
Có lẽ, Bộ Y tế cũng cần có cách làm tương tự với các sản phẩm xét nghiệm nhanh COVID-19 hiện nay, vừa khuyến khích, tạo điều kiện cho “người Việt Nam dùng hàng Việt Nam”, nhưng cũng phải đảm bảo tính khách quan, khoa học và công bằng đối với các sản phẩm khác trên thị trường, tất cả vì mục tiêu kiểm soát, đẩy lùi dịch bệnh, bảo vệ sức khoẻ nhân dân và tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Một chuyên gia trong lĩnh vực y tế đã gửi kết quả nghiên cứu mới đây Viện Paul Ehrlich (PEI) và Viện Robert Koch (RKI) danh tiếng của Cộng hòa Liên bang Đức liên quan đến các xét nghiệm nhanh kháng nguyên đến phóng viên.
Theo đó, Viện Paul Ehrlich (PEI) và Viện Robert Koch (RKI) đã tiến hành nghiên cứu so sánh 122 loại xét nghiệm nhanh kháng nguyên trên thế giới và kết luận rằng có 96 sản phẩm vượt qua tiêu chuẩn độ nhạy 75% với ngưỡng CT < 25, 26 sản phẩm không đạt chuẩn độ nhạy 75% với ngưỡng CT < 25 và bị đưa ra khỏi danh sách được sử dụng tại Cộng hòa Liên bang Đức.
Đáng tiếc là sản phẩm của một công ty Việt Nam lại nằm trong danh sách không đạt chuẩn này.
Trong khi đó, 3 sản phẩm xét nghiệm nhanh kháng nguyên nhập khẩu đã được Bộ Y tế phê duyệt sử dụng tại Việt Nam là Panbio của Abbott (Hoa Kỳ), Espline SARS-CoV-2 của Fujirebio (Nhật Bản) và Standard Q COVID-19 Ag Test của hãng SD Biosensor (Hàn Quốc) đều đạt chuẩn với độ nhạy rất cao. (1)
26 sản phẩm không đạt chuẩn độ nhạy 75% với ngưỡng CT < 25 và bị đưa ra khỏi danh sách được sử dụng tại Cộng hòa Liên bang Đức. |
Tài liệu tham khảo:
(1) Tham khảo nguồn nghiên cứu được công bố:
https://www.medrxiv.org/content/10.1101/2021.05.11.21257016v1.full.pdf