Kiến nghị Chính phủ ban hành nghị định về hợp tác trường đại học-doanh nghiệp

21/06/2023 06:44
Ngọc Mai
0:00 / 0:00
0:00
GDVN- Việc hợp tác giữa trường đại học và doanh nghiệp vẫn còn đó nhiều khó khăn, cần giải pháp tháo gỡ bằng cơ chế.

Theo lãnh đạo của một số cơ sở giáo dục đại học, việc hợp tác giữa trường đại học và doanh nghiệp tạo thuận lợi cho người học, mang lại lợi ích hài hòa cho các bên tham gia. Tuy nhiên vẫn còn đó nhiều khó khăn cần giải pháp tháo gỡ bằng cơ chế.

Hợp tác trường đại học - doanh nghiệp hướng mục tiêu đến người học

Bàn về thực trạng và giải pháp để nâng cao hiệu quả hợp tác giữa trường đại học và doanh nghiệp, trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Giáo sư, Tiến sĩ Chử Đức Trình - Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ (Đại học Quốc gia Hà Nội) cho biết, trung bình mỗi sinh viên sau khi tốt nghiệp đại học sẽ tham gia và phục vụ thị trường lao động trong khoảng 40 đến 50 năm, bởi độ tuổi nghỉ hưu của người lao động hiện nay đã được tăng lên theo quy định hiện hành. Do đó, hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học của các trường đại học vừa phải có tính đáp ứng nhu cầu xã hội trong bối cảnh hiện tại, vừa phải có tính định hướng lâu dài cho sự phát triển và chất lượng của hệ thống lao động.

Giáo sư, Tiến sĩ Chử Đức Trình – Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ (Đại học Quốc gia Hà Nội). Ảnh: Nhân vật cung cấp.

Giáo sư, Tiến sĩ Chử Đức Trình – Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ (Đại học Quốc gia Hà Nội). Ảnh: Nhân vật cung cấp.

Theo Giáo sư Chử Đức Trình, kiến thức và kỹ năng đầu ra của chương trình đào tạo không chỉ yêu cầu sinh viên tốt nghiệp đại học đáp ứng được đòi hỏi nhanh chóng việc tiếp cận các vị trí việc làm của doanh nghiệp, mà các em còn phải được trang bị đầy đủ kiến thức cơ bản, khả năng tự học suốt đời để có thể thích nghi với sự thay đổi liên tục của xã hội, đặc biệt là ở các ngành công nghệ kỹ thuật.

Việc gắn kết với doanh nghiệp giúp nhà trường duy trì và nâng cao chất lượng đào tạo, phát triển ngành, chuyên ngành đào tạo một cách linh hoạt, phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Hợp tác trong nghiên cứu phát triển R&D (Research and Development) giúp trường đẩy mạnh việc chuyển giao công nghệ và sản phẩm nghiên cứu khoa học, xây dựng và phát triển các nhóm nghiên cứu và đội ngũ cán bộ.

Bên cạnh đó, doanh nghiệp có thể trực tiếp tham gia vào quá trình xây dựng chuẩn đầu ra của sinh viên, chương trình đào tạo, thậm chí tham gia giảng dạy và rèn luyện kỹ năng cho sinh viên. Các doanh nghiệp có cơ hội trực tiếp làm việc với sinh viên, có điều kiện theo dõi, đánh giá về năng lực, trình độ và mức độ đáp ứng của sinh viên một cách chính xác nhất với nhu cầu tuyển dụng. Doanh nghiệp tiếp cận với những kết quả nghiên cứu mới nhất để có thể ứng dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh tế, tiếp cận nguồn nhân lực chất lượng cao; rút ngắn thời gian đào tạo, tuyển chọn và sắp xếp vị trí nhân sự, nâng cao ưu thế cạnh tranh trong thị trường lao động.

Ngoài ra, đối với người học, việc hợp tác với doanh nghiệp giúp cho sinh viên được tiếp cận với hệ thống tri thức mới, có sự định hướng và lựa chọn nghề nghiệp phù hợp từ sớm. Sinh viên được tiếp cận với thực tiễn, môi trường làm việc trong tương lai, tạo cơ hội có việc làm (đúng ngành, mức thu nhập cao) khi sau tốt nghiệp.

Theo Thạc sĩ Hoàng Thị Thoa – Phụ trách Trung tâm Tuyển sinh và Truyền thông – Trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, việc liên kết người học – trường đại học – doanh nghiệp đều đạt lợi ích nhất định và hỗ trợ các bên cùng phát triển.

Thạc sĩ Hoàng Thị Thoa - Phụ trách Trung tâm Tuyển sinh và Truyền thông – Trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: Nhân vật cung cấp.

Thạc sĩ Hoàng Thị Thoa - Phụ trách Trung tâm Tuyển sinh và Truyền thông – Trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: Nhân vật cung cấp.

Đối với sinh viên, việc liên kết người học – nhà trường – doanh nghiệp tạo cơ hội học tập thực tế, hoàn thiện kỹ năng, xác định thái độ phù hợp. Sinh viên được hỗ trợ, tư vấn, giới thiệu việc làm, định hướng nghề nghiệp, thực tập tại các doanh nghiệp, được hỗ trợ tài chính và các nguồn lực vật chất, nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp thuận lợi.

Trường đại học được đổi mới chương trình giảng dạy và cơ cấu tuyển sinh theo nhu cầu doanh nghiệp, bổ sung nguồn giảng viên từ cán bộ của doanh nghiệp, doanh nhân.

Doanh nghiệp nâng cao khả năng nghiên cứu, tiếp cận nhiều đề tài, kết quả nghiên cứu có tính ứng dụng cao, giải quyết nhu cầu nhân lực, tuyển dụng, mở rộng tệp khách hàng của mình.

Điểm nghẽn trong hoạt động gắn kết hợp tác trường đại học – doanh nghiệp

Hiện nay, doanh nghiệp về khoa học, công nghệ trong và ngoài nước tại Việt Nam phát triển nhanh chóng. Do đó, việc hợp tác giữa trường đại học – doanh nghiệp là yêu cầu bắt buộc đối với tất cả các trường cũng như doanh nghiệp nhằm xây dựng một thị trường lao động chất lượng cao và bền vững. Tuy nhiên, trên thực tế, bên cạnh thuận lợi thì còn có những nhân tố kìm hãm hoạt động gắn kết giữa trường đại học và doanh nghiệp.

Giáo sư Chử Đức Trình cho rằng, các yếu tố quán tính, ngại đổi mới và thiếu sáng tạo có ảnh hướng lớn nhất đến các hoạt động gắn kết giữa trường đại học và doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.

“Phần lớn việc hợp tác trường đại học - doanh nghiệp còn tập trung vào một số hoạt động cơ bản như quảng bá, tuyển dụng hoặc tài trợ mà chưa xây dựng được kế hoạch tổng thể, lâu dài và bền vững giúp thúc đẩy cho các hoạt động đào tạo, nghiên cứu và chuyển giao.

Vì vậy, việc gắn kết giữa trường đại học và doanh nghiệp mới chỉ diễn ra ở một số trường đại học có sức hút tuyển sinh, đào tạo một số ngành, lĩnh vực mà xã hội đang cần, có nhu cầu cao, hoặc chỉ diễn ra ở một số tỉnh/thành phố lớn có tiềm năng chứ chưa tạo ra các phương thức phổ biến để thu hút các bên liên quan”, Giáo sư Chử Đức Trình chia sẻ.

Sinh viên Trường Đại học Công nghệ (Đại học Quốc gia Hà Nội) tham gia thực tập tại Tập đoàn Sunhouse. Ảnh: Nhân vật cung cấp.

Sinh viên Trường Đại học Công nghệ (Đại học Quốc gia Hà Nội) tham gia thực tập tại Tập đoàn Sunhouse. Ảnh: Nhân vật cung cấp.

Cũng theo Giáo sư Chử Đức Trình, năng lực về đào tạo và nghiên cứu khoa học của một số trường đại học chưa cao, chưa bắt kịp xu thế phát triển của công nghệ, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của doanh nghiệp. Nhiều trường đại học chưa xây dựng được các cơ chế chính sách bắt buộc hợp tác với doanh nghiệp, mới dừng lại ở khuyến khích, thúc đẩy mối quan hệ hợp tác hai bên. Một số đội ngũ giảng viên chưa được tiếp cận nhiều với doanh nghiệp, các công nghệ và kiến thức thực tế dẫn đến thực tập, thực tế của sinh viên còn nhiều hạn chế.

Ngoài ra, việc mời các cán bộ của doanh nghiệp đến trường giảng dạy, hướng dẫn, hay tham gia các hội đồng chuyên môn tại trường đại học còn nhiều bất cập và chưa nhận được nhiều chia sẻ của các bên tham gia.

“Trong lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ hiện nay, doanh nghiệp cũng gặp tình trạng phân mảnh về thị trường lao động. Nhu cầu nhân lực chất lượng cao, công việc bền vững gắn với các điều kiện thu nhập cao, môi trường làm việc tiên tiến thường chỉ ở nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) hoặc một vài tập đoàn kinh tế đứng đầu. Còn đa phần, các doanh nghiệp nội địa, doanh nghiệp công nghệ khởi nghiệp thường không có điều kiện đầu tư hoặc thực hiện các chính sách lâu dài. Do đó, không ít doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp khởi nghiệp “thua ngay” trên sân nhà trong bài toán thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao và bền vững”,

_Giáo sư Chử Đức Trình chia sẻ_

Ngoài ra, còn một số khó khăn cần phải vượt qua liên quan đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên chất lượng đáp ứng được yêu cầu rất cao của các doanh nghiệp và xã hội. Hơn nữa, đối với những doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ và các doanh nghiệp khởi nghiệp, việc đầu tư cho nghiên cứu phát triển là một bài toán khó khi nguồn lực không nhiều và thiếu kinh nghiệm, thông tin gắn kết thị trường.

“Đó có lẽ là khó khăn và thách thức mà chúng ta cần xây dựng hệ thống chính sách để hỗ trợ các doanh nghiệp. Trường Đại học Công nghệ - Đại học Quốc gia Hà Nội có nhiều hợp tác với các doanh nghiệp nước ngoài, doanh nghiệp FDI hơn so với các doanh nghiệp trong nước có lẽ cũng một phần do nguyên nhân này”, Giáo sư Chử Đức Trình chia sẻ.

Cùng trao đổi về chủ đề này, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Văn – Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm (Đại học Huế) chỉ ra rằng, thứ nhất, nhà nước chưa có những chính sách, quy định cụ thể ràng buộc về trách nhiệm hợp tác để các bên cùng có lợi.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Văn – Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm (Đại học Huế). Ảnh: Nhân vật cung cấp.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Văn – Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm (Đại học Huế). Ảnh: Nhân vật cung cấp.

Thứ hai, doanh nghiệp chưa thấy rõ lợi ích lâu dài khi thực hiện liên kết với trường đại học. Hiện nay, việc liên kết phải đem lại lợi ích trước mắt cho doanh nghiệp thì họ mới quan tâm. Hầu hết các doanh nghiệp chỉ hướng đến mục tiêu tuyển dụng nhân lực thông qua các hoạt động liên kết. Hay nói cách khác, doanh nghiệp chỉ mong muốn tuyển dụng được nhiều sinh viên tốt, đáp ứng nhu cầu trước mắt, hiếm có doanh nghiệp mạnh dạn đặt hàng đào tạo cho trường đại học mang tính lâu dài để tạo nguồn và phát triển nguồn nhân lực.

Thứ ba, hoạt động hợp tác lâu nay chủ yếu ở khâu tuyển dụng nguồn nhân lực, ít có hợp tác toàn diện cả về đào tạo, nghiên cứu khoa học, ươm tạo sản phẩm nghiên cứu từ trường đại học. Năng lực của các trường đại học về nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ vẫn chưa theo kịp sự phát triển công nghệ và nhu cầu doanh nghiệp.

Thứ tư, các bên đều chưa thực sự chủ động trong các hoạt động hợp tác. Về phía doanh nghiệp, thường là do hoạt động sản xuất kinh doanh và nhu cầu nhân lực không ổn định. Về phía nhà trường, thường do khó khăn trong vấn đề tài chính nên không thể triển khai các hoạt động hợp tác sâu rộng khi không nhận được sự hỗ trợ tích cực của doanh nghiệp.

“Điểm nghẽn từ hai phía đó là hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong lĩnh vực Nông-Lâm-Thuỷ sản thường không ổn định, dẫn đến nhu cầu nhân lực không ổn định. Do đó, hầu hết doanh nghiệp chưa có chiến lược tạo nguồn dài hạn.

Theo trào lưu chung, sinh viên theo học khối ngành Nông-Lâm-Thuỷ sản giảm sút nên nhà trường không thể đáp ứng đủ yêu cầu về số lượng nhân sự cho các doanh nghiệp. Đó là một thách thức lớn đối với các doanh nghiệp và nhà trường hiện nay”,

_Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Văn chia sẻ_

Đồng tình với những quan điểm trên, nhưng Thạc sĩ Hoàng Thị Thoa cho rằng, nhân tố kìm hãm rõ nhất vẫn là tư duy và nhận thức của các bên.

Một bộ phận sinh viên còn thụ động, ỉ lại vào nhà trường, chưa nắm bắt cơ hội học tập, rèn luyện tại các doanh nghiệp. Một số có suy nghĩ sai lệch khi quá đặt nặng lợi ích vật chất, quan niệm thực tập tại doanh nghiệp phải được trả lương.

Tư duy lối mòn xưa nay của các doanh nghiệp vẫn chú trọng tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp để làm việc. Các doanh nghiệp chưa thấy trách nhiệm và tầm quan trọng trong việc đầu tư vào công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học của trường đại học.

Các trường đại học vẫn chú trọng công tác đào tạo, xem sinh viên là khách hàng nhưng chưa đánh giá tầm quan trọng của khách hàng, doanh nghiệp, tư duy trông chờ, đòi hỏi trách nhiệm của doanh nghiệp.

Về phía cơ quan quản lý nhà nước, hiện chưa có văn bản hay quy định cụ thể nào cho mối quan hệ giữa trường đại học – doanh nghiệp. Chưa có sự ràng buộc hay chế tài để các doanh nghiệp phải tuyển dụng những lao động đã qua đào tạo. Ngoài ra, những quy định về khung chương trình, thời gian đào tạo còn cứng nhắc, thiếu linh động, gây khó khăn cho hợp tác trường đại học và doanh nghiệp.

Sinh viên Trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm Thành phố Hồ Chí Minh trong chuyến tham quan doanh nghiệp. Ảnh: website nhà trường.

Sinh viên Trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm Thành phố Hồ Chí Minh trong chuyến tham quan doanh nghiệp. Ảnh: website nhà trường.

“Theo tôi, một trong những điểm nghẽn lớn về gắn kết giữa trường đại học và doanh nghiệp hiện nay là chương trình đào tạo cho sinh viên.

Cụ thể, chương trình thiết kế vênh, chưa bám sát thực tế sản xuất và nhu cầu lao động. Số lượng học phần nặng lý thuyết, chủ yếu học ở trường chứ chưa có nhiều học phần và thời gian học tập, thực tập tại các doanh nghiệp.

Chương trình đào tạo có thời gian cho sinh viên tiếp xúc làm việc và trải nghiệm tại doanh nghiệp nhưng còn mang tính hình thức. Cả nhà trường và doanh nghiệp đều chưa quan tâm đến lợi ích người học trong hoạt động này.

Chương trình đào tạo các nội dung tham quan doanh nghiệp, kiến tập, thực tập, học kỳ doanh nghiệp… thiết kế không đồng bộ, thiếu tính kế thừa và phát triển. Điểm nghẽn này làm cho trường đại học rất bị động, khó khăn khi nhận được đề nghị hợp tác của doanh nghiệp hoặc khi triển khai các hoạt động kết nối đưa sinh viên xuống doanh nghiệp, bố trí giảng viên hướng dẫn. Ảnh hưởng nhiều đến tiến độ đào tạo chung và ảnh hưởng trực tiếp quyền lợi học tập, tốt nghiệp của sinh viên”, Thạc sĩ Hoàng Thị Thoa chia sẻ.

Giải pháp tháo gỡ bằng cơ chế mang lại lợi ích hài hoà các bên

Để tháo gỡ những điểm nghẽn trong hoạt động gắn kết nhà trường với doanh nghiệp, Giáo sư Chử Đức Trình cho rằng, trường đại học cần có sự chủ động trong các hoạt động hợp tác doanh nghiệp, coi đây là yếu tố then chốt, xây dựng thành các chương trình hành động bắt buộc, cụ thể và mang tính bền vững. Các trường đại học cũng cần đẩy mạnh hoạt động đổi mới sáng tạo, tập trung vào nghiên cứu, giải quyết những bài toán thực tế mà doanh nghiệp và xã hội cần. Không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo theo hướng hiện đại, cập nhật, đào tạo ra những công dân toàn cầu của thế kỷ 21.

Doanh nghiệp cần thể hiện rõ trách nhiệm xã hội, trách nhiệm với cộng đồng, có sự đồng hành cùng với nhà trường trong các hoạt động từ xây dựng chương trình đào tạo, hỗ trợ thực tập, thực tế, định hướng cơ hội nghề nghiệp cho sinh viên, đào tạo bồi dưỡng thêm cho sinh viên những kiến thức, kỹ năng thực tế, đầu tư và phối hợp trong các hoạt động nghiên cứu, chuyển hóa các kết quả nghiên cứu của nhà trường thành các sản phẩm phục vụ cho đời sống xã hội.

Đặc biệt, Chính phủ nên có nhiều chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp khởi nghiệp, đặc biệt, trong công tác thu hút và đầu tư nhân lực. Để hỗ trợ cho các hoạt động nghiên cứu và phát triển R&D, Nhà nước nên thành lập các Trung tâm Đổi mới sáng tạo, Phòng thí nghiệm mang tính mở có sự tham gia của các doanh nghiệp, các trường đại học và viện nghiên cứu. Các Trung tâm Đổi mới sáng tạo đặt tại các thành phố lớn, khu công nghiệp trọng điểm này sẽ đóng vai trò thúc đẩy nghiên cứu phát triển, kết nối trường – viện – doanh nghiệp, cũng như hỗ trợ việc làm cho sinh viên và người lao động chất lượng cao.

Ngoài ra, chính sách tự chủ trong các trường đại học bước đầu đã là yếu tố và động lực để nhiều trường đại học phát triển mạnh trong thời gian vừa qua. Tuy vậy, để thực sự đáp ứng được yêu cầu phát triển và xây dựng một thị trường lao động chất lượng cao, thị trường khoa học và công nghệ tiên tiến, cần nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện các chính sách tự chủ đại học phù hợp với bối cảnh và yêu cầu phát triển bền vững.

Trước những khó khăn từ thực tiễn nhà trường, Thạc sĩ Hoàng Thị Thoa cũng kiến nghị đề xuất một số giải pháp nhằm tháo gỡ bằng cơ chế mang lại lợi ích cho các bên tham gia.

Một là, trường đại học phải có thiện chí mời doanh nghiệp tham gia chương trình đào tạo và luôn cập nhật để phù hợp với thực tiễn.

Hai là, đảm bảo hài hoà lợi ích các bên trong đó chú trọng lợi ích người học, có như vậy thì trường đại học và doanh nghiệp mới có lợi ích thực sự lâu dài, bền vững.

Ba là, thiết kế tối ưu hóa chương trình thực tế hiệu quả, lựa chọn và chuẩn hóa cán bộ doanh nghiệp để có đủ năng lực đánh giá chương trình và đánh giá kết quả sinh viên khi trải nghiệm thực tế tại các doanh nghiệp.

Bốn là, thay đổi hình thức tổ chức giảng dạy, tạo điều kiện cho cán bộ doanh nghiệp tham gia giảng dạy các học phần phù hợp hoặc chia sẻ, giới thiệu các chuyên đề thực tế.

Về cơ chế chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn, mang lại lợi ích cho các bên trong hợp tác trường đại học và doanh nghiệp, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Văn cho rằng, Chính phủ cần ban hành nghị định quy định cụ thể về hợp tác giữa trường đại học và doanh nghiệp. Nghị định này phải vừa có tính ràng buộc vừa có tính khuyến khích sự gắn kết hơn nữa trong đào tạo và tuyển dụng, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ.

Báo chí thúc đẩy gắn kết giữa trường đại học và doanh nghiệp

Theo Giáo sư, Tiến sĩ Chử Đức Trình, với sự bùng nổ của công nghệ thông tin, các phương tiện truyền thông hiện đại phát triển, báo chí đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với cộng đồng doanh nghiệp nói chung cũng như thúc đẩy hợp tác, phát triển gắn kết giữa cộng đồng doanh nghiệp với các trường đại học nói riêng.

“Báo chí là cầu nối giữa doanh nghiệp và nhà trường. Thông qua các kênh thông tin từ các cơ quan thông tấn, báo chí, giúp nhà trường nắm bắt được xu thế phát triển, sự đầu tư của doanh nghiệp vào các lĩnh vực khác nhau, lắng nghe ý kiến của doanh nghiệp. Từ đó, có những điều chỉnh thích hợp trong công tác đào tạo, nghiên cứu góp phần nâng cao vị thế nhà trường, cải thiện chất lượng đầu ra cho sinh viên.

Nhờ báo chí mà các doanh nghiệp có được thông tin đa dạng, nhiều chiều, nắm bắt định hướng nghiên cứu, lĩnh vực đào tạo của các trường, từ đó có chính sách đầu tư, tuyển dụng và sử dụng lao động một cách hiệu quả nhất”, Giáo sư Chử Đức Trình chia sẻ.

Ảnh minh họa: website Trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm Thành phố Hồ Chí Minh.

Ảnh minh họa: website Trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm Thành phố Hồ Chí Minh.

Trong khi đó, Thạc sĩ Hoàng Thị Thoa cho rằng, báo chí có vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển gắn kết giữa trường đại học và doanh nghiệp. Thông qua các bài báo, phóng sự về những mô hình hợp tác trường đại học và doanh nghiệp sẽ là bài học kinh nghiệm cho các trường tham khảo và áp dụng.

“Báo chí giúp quảng bá, tuyên truyền những kết quả đạt được, những giá trị mang lại cho các bên và xã hội sẽ thúc đẩy nhà trường, doanh nghiệp tích cực hợp tác gắn kết có chiều sâu, có sự đầu tư hơn. Thông qua báo chí cũng góp phần thay đổi tư duy, nhận thức của các bên liên quan nhà trường – doanh nghiệp – người học, từ đó điều chỉnh thái độ và hành động phù hợp tạo ra những giá trị to lớn hơn”, Thạc sĩ Hoàng Thị Thoa chia sẻ.

Khẳng định vai trò của báo, tạp chí trong thúc đẩy hợp tác hiệu quả trường đại học và doanh nghiệp, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Văn gửi gắm: “Báo, tạp chí, đặc biệt là báo, tạp chí điện tử, là kênh truyền thông rất hiệu quả cho mọi lĩnh vực trong thời đại ngày nay. Báo, tạp chí đã góp phần phổ biến thông tin của nhà trường đến với doanh nghiệp và ngược lại. Nhờ đó, tạo nên và thúc đẩy phát triển gắn kết giữa doanh nghiệp và nhà trường.

Rất mong thời gian tới, Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam tiếp tục khai thác, đưa tin trên các diễn đàn về các mô hình hợp tác tiêu biểu giữa nhà trường và doanh nghiệp để các đơn vị quan tâm tìm hiểu và học tập”.

Ngọc Mai