Được Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội chấp thuận để triển khai Dự án đầu tư xây dựng khu cây xanh vườn hoa kết hợp bãi đỗ xe tại phường Long Biên (quận Long Biên, Hà Nội), nhưng bằng một “thế lực” bí hiểm, dự án đã được bổ sung chức năng nhà ở.
Điều đáng nói, chức năng nhà ở được bổ sung chỉ có vẻn vẹn hai căn nhà dạng biệt thự song lập và đến nay sau nhiều năm khởi động, dự án vẫn chỉ là khu đất trống được quây tôn kín mít.
Sau nhiều năm triển khai, Dự án khu cây xanh vườn hoa kết hợp bãi đỗ xe và nhà ở vẫn quây tôn để đó. |
Tìm hiểu được biết, ngày 6/11/2012 Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội đã có Văn bản số 8839/UBND-KH&ĐT về việc chấp thuận chỉ định nhà đầu tư thực hiện Dự án đầu tư xây dựng khu cây xanh vườn hoa kết hợp bãi đỗ xe tại phường Long Biên đối với Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Thương mại và đầu tư Thiên Hà Thủy.
Theo đó mục tiêu của dự án được nêu rõ: Xây dựng đồng bộ về hạ tầng kỹ thuật và công trình phụ trợ, góp phần hoàn thiện cơ cấu quy hoạch tổng thể chung của khu vực, tạo điều kiện phát triển việc làm và đóng góp nguồn thu cho ngân sách địa phương.
Theo kế hoạch, dự án được khởi công vào quý II/2013 và hoàn thành vào quý II/2014.
Tuy nhiên bằng một “thế lực” bí hiểm, không lâu sau đó dự án lại được đề xuất điều chỉnh bổ sung chức năng nhà ở.
Theo Văn bản số 1623/QHKT-P3 ngày 3/6/2013 của Sở Quy hoạch – Kiến trúc Hà Nội đã kiến nghị và đề xuất Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội:
“Cho phép bổ sung chức năng nhà ở vào tên dự án thành “Dự án khu cây xanh vườn hoa kết hợp bãi đỗ xe và nhà ở” (trường hợp giữ nguyên tên dự án và chức năng sử dụng là Khu cây xanh vườn hoa kết hợp bãi đỗ xe thì Chủ đầu tư phải triển khai điều chỉnh cục bộ chức năng sử dụng ô đất nhà ở ký hiệu C2-4/LX1 (khoảng 470m2) sang chức năng đất cây xanh vườn hoa hoặc chức năng bãi đỗ xe, làm cơ sở triển khai nghiên cứu quy hoạch tổng mặt bằng tỷ lệ 1/500 theo quy định tại Luật Quy hoạch đô thị không thuộc diện cấp Giấy phép quy hoạch)”.
Sau văn bản này Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội đã có văn bản chấp thuận theo như đề nghị của Sở Quy hoạch – Kiến trúc Hà Nội và lùi thời gian triển khai dự án thêm một năm nữa (quý II/2014).
Tại văn bản chấp thuận quy hoạch tổng mặt bằng và phương án kiến trúc sơ bộ, dự án có diện tích đất nghiên cứu tổng mặt bằng khoảng 13.725m2, trong đó đất cây xanh vườn hoa khoảng 12.373m2, đất bãi đỗ xe khoảng 882m2, đất nhà ở khoảng 470m2.
Cũng tại văn bản chấp thuận quy hoạch tổng mặt bằng và phương án kiến trúc sơ bộ cũng nêu rõ:
Dự án được phép nhà điều hành, trưng bày sinh vật cảnh trên diện tích khoảng 490m2; công trình dịch vụ giải khát trên diện tích khoảng 113m2; hai nhà vườn song lập cao 3 tầng với diện tích sàn công trình khoảng 273m2.
Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội cần kiểm tra và thu hồi dự án, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.
Đến ngày 18/2/2014, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội đã cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Thương mại và đầu tư Thiên Hà Thủy đối với Dự án khu cây xanh vườn hoa kết hợp bãi đỗ xe và nhà ở, tiến độ thực hiện dự án được nới từ quý I/2014/ đến quý I/2016.
Thế nhưng đến nay đã gần 2 năm trôi qua, kể từ thời hạn của Giấy chứng nhận đầu tư, dự án vẫn “trơ gan cùng tuế nguyệt”, xung quanh quây tôn kín mít.
Có thể thấy, đối với dự án này không những được Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội “ưu ái” điều chỉnh bổ sung chức năng nhà ở, mà còn tiếp tục được các Sở, ngành “châm chước” bỏ qua việc không phải làm thủ tục chấp thuận đầu tư phát triển nhà ở đối với phần diện tích đất ở trong dự án.
Bởi theo lý giải của Sở Tài nguyên và môi trường Hà Nội thì khu nhà ở chỉ chiếm một phần diện tích đất nhỏ trong dự án, cũng như để cải cách thủ tục hành chính trong thủ tục liên thông về đầu tư, xây dựng, liên ngành thống nhất đề nghị Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội chấp thuận cho Chủ đầu tư dự án cơ chế giao đất và nộp tiền sử dụng đất sát với giá thị trường với phần đất ở trong dự án.
Trong khi đó, theo điểm i khoản I, Điều 64 Luật Đất đai sửa đổi đã quy định:
“Đất được Nhà nước giao, cho thuê để thực hiện dự án đầu tư mà không được sử dụng trong thời hạn 12 tháng liên tục hoặc tiến độ sử dụng đất chậm 24 tháng so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư kể từ khi nhận bàn giao đất trên thực địa phải đưa đất vào sử dụng;
Trường hợp không đưa đất vào sử dụng thì Chủ đầu tư được gia hạn sử dụng 24 tháng và phải nộp cho Nhà nước khoản tiền tương ứng với mức tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối với thời gian chậm tiến độ thực hiện dự án trong thời gian này;
Hết thời hạn được gia hạn mà Chủ đầu tư vẫn chưa đưa đất vào sử dụng thì Nhà nước thu hồi đất mà không bồi thường về đất và tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp do bất khả kháng”.
Mặt khác theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 51 Luật Quy hoạch đô thị quy định về trình tự điều chỉnh quy hoạch quy định như sau:
Khoản 1: “Cơ quan có trách nhiệm tổ chức lập quy hoạch đô thị lập báo cáo về nội dung và kế hoạch điều chỉnh cục bộ quy hoạch đô thị, tổ chức xin ý kiến cộng đồng dân cư trong khu vực điều chỉnh quy hoạch và các khu vực xung quanh có ảnh hưởng trực tiếp và trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch đô thị xem xét”.
Khoản 2: “Cơ quan có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch đô thị xem xét, quyết định việc điều chỉnh cục bộ bằng văn bản trên cơ sở ý kiến của cơ quan thẩm định quy hoạch đô thị”.
Căn cứ vào điều luật trên thì việc điều chỉnh quy hoạch không thể bằng một công văn thỏa thuận của Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội.
Đây là việc điều chỉnh trái pháp luật mà báo chí đã nhiều lần đưa tin, nhưng không được sửa đổi.
Nhìn chung việc xây dựng dự án ngoài việc điều chỉnh trái pháp luật, còn trái với mục tiêu ban đầu của dự án là xây dựng đồng bộ về hạ tầng kỹ thuật và công trình phụ trợ, góp phần hoàn thiện cơ cấu quy hoạch tổng thể chung của khu vực, việc chấp thuận điều chỉnh bổ sung chức năng nhà ở vào dự án của Hà Nội sẽ góp phần “phá nát” dự án, và dự án này cũng trở thành “tư dinh” của ai đó về lâu dài.
Chưa kể đến việc, từ khi dự án được cấp giấy chứng nhận đầu tư, đã gần 2 năm trôi qua mà dự án vẫn chỉ là bãi đất trống.
Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội cần chỉ đạo các ngành chức năng xem xét tính khả thi dự án và thu hồi dự án đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và xử lý trách nhiệm tổ chức, cá nhân liên quan đến dự án này.