Hội nhập về giáo dục đào tạo trong Mạng lưới các trường đại học Đông Nam Á

14/08/2018 14:13
Nguyễn Duy Mộng Hà - Bùi Ngọc Quang
(GDVN) - Việc gia nhập cộng đồng ASEAN mở ra cho Việt Nam nhiều cơ hội phát triển về nhiều mặt, trong đó có giáo dục và đào tạo, nhất là ở bậc đại học.

Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam nhận được một số bản tham luận gửi Hội thảo Giáo dục 2018: Giáo dục đại học - Chuẩn hóa và hội nhập quốc tế, do Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội tổ chức ngày 17/8 tại Hà Nội.

Tòa soạn xin trân trọng giới thiệu đến quý bạn đọc bản tham luận đầu tiên của 2 tác giả Nguyễn Duy Mộng Hà và Bùi Ngọc Quang. Văn phong, nội dung bài viết thể hiện quan điểm, góc nhìn của tác giả.

Tóm tắt

Việc gia nhập cộng đồng ASEAN mở ra cho Việt Nam nhiều cơ hội phát triển về nhiều mặt, trong đó có giáo dục và đào tạo, nhất là ở bậc đại học.

Những năm gần đây, việc kiểm định chất lượng các chương trình đào tạo bậc đại học, sau đại học và mới đây là kiểm định cấp cơ sở đào tạo theo Bộ tiêu chuẩn AUN-QA đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng như hầu hết các trường đại học trong cả nước quan tâm.

Bài viết trước tiên (1) trình bày bối cảnh hội nhập và chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc áp dụng Bộ tiêu chuẩn AUN-QA trong công tác kiểm định và cải tiến, nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo đại học;

Tiếp theo (2) phân tích và dẫn chứng các trường hợp tiêu biểu tiên phong trong việc đánh giá chất lượng đào tạo theo Bộ tiêu chuẩn AUN- QA;

Kế đến (3) tổng hợp các cơ hội phát triển cho các trường đại học Việt Nam cũng như giáo dục đại học Việt Nam bước vào hội nhập theo chuẩn chung này, kể cả các công cụ và khung chuẩn, các hoạt động chuyển giao và chia sẻ kinh nghiệm;

Sau cùng (4) đưa ra một số kiến nghị đề xuất cụ thể cho việc tiếp tục phát triển bền vững trong giáo dục đại học Việt Nam trong việc nắm bắt cơ hội và từng bước điều chỉnh chính sách và hoạt động theo yêu cầu của AUN một cách hài hòa và phù hợp.

Dẫn nhập

Việc hội nhập khu vực ASEAN tạo cơ hội cho việc chia sẻ và hợp tác cùng phát triển, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh là một trong ba trường đại học trong cả nước là thành viên chính thức của Mạng lưới các trường đại học Đông Nam Á (ASEAN University Network hay AUN) có điều kiện tiếp cận các Bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng và các tài liệu, cơ hội hợp tác học hỏi với các trường đại học hàng đầu trong khu vực từ sớm.

Hội nhập về giáo dục đào tạo trong Mạng lưới các trường đại học Đông Nam Á ảnh 1Quản trị giáo dục đại học chạy theo không kịp so với nhu cầu người học

Tuy nhiên, điều quan trọng là ý thức và quyết tâm cũng như từng bước học hỏi và áp dụng các chuẩn chất lượng trong việc đổi mới giáo dục đại học một cách liên tục, toàn diện và hệ thống để các lãnh đạo giáo dục đại học Việt Nam nhanh chóng bắt kịp sự phát triển của các nước trong khu vực, góp phần vào sự phát triển chung của khu vực.

Do đó, cần có lộ trình từng bước đổi mới liên tục một cách nhất quán và đồng bộ, từ đầu đến quá trình và đầu ra trong giáo dục đại học.

1. Bối cảnh hội nhập và chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo về hội nhập khu vực ASEAN

Mạng lưới các trường đại học Đông Nam Á được thành lập vào năm 1995 theo thỏa thuận của các Bộ trưởng Giáo dục ASEAN, hiện có 30 trường đại học thành viên chính thức thuộc 10 nước (trong đó có 2 Đại học Quốc gia và Đại học Cần Thơ của Việt Nam).

Hệ thống đảm bảo chất lượng các trường đại học Đông Nam Á (AUN-QA- ASEAN University Network Quality Assurance) được thành lập vào năm 1998 và đã ban hành nhiều tài liệu quan trọng liên quan đến các hướng dẫn về đảm bảo chất lượng từ năm 2004 đến nay, đặc biệt là Tài liệu hướng dẫn đánh giá chất lượng cấp chương trình đào tạo theo Bộ tiêu chuẩn AUN-QA (phiên bản 3.0) vào năm 2015 với 11 tiêu chuẩn và 50 tiêu chí (trước đây là 15 tiêu chuẩn với 68 tiêu chí vào năm 2011 và 18 tiêu chuẩn với 72 tiêu chí vào năm 2004) thuộc các nhóm yếu tố đầu vào (input), quá trình (process), đầu ra (output) nhằm liên tục cải tiến, nâng cao dần chất lượng đào tạo).

Trong lúc giáo dục đại học Việt Nam còn đang loay hoay tìm kiếm, xây dựng và hoàn thiện một mô hình và bộ tiêu chuẩn phù hợp để đánh giá chất lượng cơ sở đào tạo cũng như chương trình đào tạo ở bậc đại học-cao đẳng, một số trường đại học hàng đầu của Đông Nam Á đã phối hợp với các chuyên gia của châu Âu cho ra đời các tài liệu phù hợp nhằm hỗ trợ các trường đại học trong khu vực nâng cao chất lượng đào tạo.

Hội nhập về giáo dục đào tạo trong Mạng lưới các trường đại học Đông Nam Á ảnh 2Bản chất thật của Giáo dục Đại học

Nhìn chung, các trường đại học thành viên AUN của Việt Nam, trong đó có Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, đã nhanh chóng tiếp cận Bộ tiêu chuẩn này từ khoảng sau năm 2005 đến nay với những mục tiêu, định hướng, ý nghĩa và kết quả cơ bản sau đây:

(1) Sử dụng mô hình đảm bảo chất lượng theo AUN-QA và đánh giá các chương trình đào tạo theo Bộ tiêu chuẩn này nhằm giúp các trường đại học Việt Nam có cơ sở khoa học để nâng cao chất lượng các chương trình học, góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, và

(2) Xác định Bộ tiêu chuẩn AUN-QA được xem là khá phù hợp cho việc đánh giá các chương trình đào tạo của các trường đại học Việt Nam nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, giữ uy tín và thương hiệu cho các ngành học.

Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã mạnh dạn xin phép AUN và chủ trương kiểm định chất lượng giáo dục đại học theo Bộ tiêu chuẩn AUN-QA cấp chương trình đào tạo, cấp cơ sở đào tạo và triển khai áp dụng bắt đầu từ năm 2017 dưới sự cho phép và đồng ý của Hội đồng Tín thác Mạng lưới các trường đại học ASEAN (AUN Board of Trustees), với nhiều văn bản mới được ban hành; từ đó có cơ sở đổi mới mạnh mẽ giáo dục đại học.

Việc đạt chuẩn AUN-QA của các chương trình đào tạo Việt Nam là bước đầu tạo điều kiện để các trường đại học Việt Nam tiến dần đến sự liên thông và được công nhận trong lĩnh vực học thuật trong khu vực;

Sinh viên Việt Nam được hưởng lợi khi di chuyển giữa các trường đại học trong khối ASEAN;

Đồng thời từ đó xây dựng được thương hiệu trường đại học, góp phần thu hút sinh viên từ các trường đại học khác trong khu vực.

Việc đạt chuẩn AUN-QA của các chương trình đào tạo Việt Nam cũng thể hiện rõ trách nhiệm giải trình của các trường đại học trước xã hội về chất lượng đào tạo theo nhu cầu của xã hội và yêu cầu của thị trường lao động, đáp ứng được kỳ vọng của Nhà nước, Chính phủ trong việc đầu tư lớn cho 2 Đại học Quốc gia của Việt Nam.

Việc áp dụng và đạt chuẩn AUN-QA của các chương trình đào tạo Việt Nam cũng góp phần thu hút mạnh mẽ đầu tư của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội, viện nghiên cứu,... trong và ngoài nước, đóng góp cho sự phát triển của trường về giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và phục vụ xã hội.

Đây cũng là Bộ tiêu chuẩn kiểm định chất lượng uy tín trong khu vực và có xu hướng tiến dần đến việc được công nhận ở các khu vực khác như Thái Bình Dương và châu Âu, được giới học thuật và doanh nghiệp biết đến.

Ngoài việc giúp hội nhập hiệu quả trong lĩnh vực đào tạo đại học, tiếp cận chuẩn AUN-QA còn giúp đẩy mạnh liên kết, hợp tác với những trường đại học có uy tín trong khu vực thông qua các chương trình trao đổi, giao lưu, hợp tác về học thuật, nghiên cứu, đào tạo, phục vụ cộng đồng,... góp phần đẩy mạnh tiến trình quốc tế hóa giáo dục đại học ở Việt Nam một cách toàn diện và sâu sắc hơn.

2. Việc tiên phong tham gia đánh giá chất lượng đào tạo theo Bộ tiêu chuẩn AUN-QA

Từ khi đăng ký kiểm định theo Bộ tiêu chuẩn AUN-QA cấp chương trình đào tạo của Mạng lưới các trường đại học Đông Nam Á vào cuối năm 2009 đến nay, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã đăng ký và đạt chuẩn khu vực 30 chương trình đào tạo bậc đại học.

Nhiều trường đã và đang (1) triển khai tự đánh giá tất cả chương trình đào tạo theo Bộ tiêu chuẩn AUN-QA;

(2) Định kỳ hàng năm có từ 1-2 chương trình đào tạo tham gia kiểm định chính thức bởi AUN;

(3) Gần đây, các trường đại học thành viên của 2 Đại học Quốc gia bắt đầu có những chương trình đào tạo sau đại học được đăng ký đánh giá, kiểm định theo Bộ tiêu chuẩn AUN-QA bởi các trung tâm kiểm định trong nước hoặc bởi tổ chức AUN;

Và (4) “văn hóa chất lượng” dần dần được thể hiện rõ hơn ở nhiều khoa; các đơn vị ý thức hơn về yêu cầu chất lượng, dù chưa có điều kiện tham gia đánh giá ngoài chương trình đào tạo nhưng bắt đầu có lộ trình cải tiến dần chương trình đào tạo từ việc rà soát các đề cương môn học, thực hiện cải tiến dựa trên các kết quả khảo sát ý kiến các bên liên quan, tham gia các đợt tập huấn về xây dựng, đánh giá chương trình đào tạo, xây dựng các danh mục minh chứng theo AUN-QA,...

Trong giai đoạn 2007-2016, Mạng lưới các trường đại học Đông Nam Á có tổng cộng 174 chương trình đào tạo được đánh giá và đạt chuẩn AUN, trong đó Việt Nam có số chương trình đạt chuẩn AUN đứng ở vị trí thứ 2, với 49 chương trình được kiểm định và đạt chuẩn AUN.

Bảng 1. Số lượng chương trình đạt chuẩn AUN trong khu vực giai đoạn 2007-2016
Bảng 1. Số lượng chương trình đạt chuẩn AUN trong khu vực giai đoạn 2007-2016

Ngoài ra, Bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng cấp cơ sở đào tạo (phiên bản 2.0) của AUN đã ra đời vào năm 2016 với 25 tiêu chuẩn và 111 tiêu chí được chia thành 4 nhóm:

(1) Đảm bảo chất lượng về mặt chiến lược, (2) Đảm bảo chất lượng về mặt hệ thống;

(3) Đảm bảo chất lượng về mặt thực hiện chức năng, (4) Kết quả thực hiện.

Một số trường đại học trong khu vực đã đăng ký đánh giá theo Bộ tiêu chuẩn cấp cơ sở đào tạo này lần đầu tiên, trong đó có 2 trường đại học của Việt Nam là Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội và Trường Đại học Bách Khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, đã được kiểm định và đạt chuẩn AUN cấp cơ sở đào tạo trong năm 2017.

Hy vọng những bài học từ các kết quả kiểm định chương trình đào tạo theo Bộ tiêu chuẩn AUN-QA ở các trường đại học Việt Nam tiên phong trong lĩnh vực đổi mới và hội nhập sẽ góp phần làm đòn bẩy để đưa giáo dục đại học Việt Nam đi lên ngang tầm khu vực với mục tiêu “liên tục cải tiến” (continuous improvement) như Theo tinh thần của AUN.

Việc này góp phần đạt được những đột phá trong “đổi mới căn bản, toàn diện về giáo dục-đào tạo” theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 8.

3. Cơ hội phát triển cho các trường đại học Việt Nam trong quá trình hội nhập

Khi áp dụng theo chuẩn đánh giá chất lượng cấp chương trình và cấp cơ sở đào tạo chung, kể cả các công cụ và khung chuẩn, thì sẽ diễn ra các hoạt động chuyển giao và chia sẻ kinh nghiệm của các trường trong khu vực, cụ thể như sau:

3.1. Các yêu cầu trong các tiêu chuẩn chất lượng cho biết yêu cầu tối thiểu mà các trường cần phần đấu để đạt được.

Các yêu cầu này đã được các chuyên gia hàng đầu của các trường đại học lớn có uy tín trong ASEAN như Singapore, Thái Lan, Malaysia, Philippines tham khảo các mô hình và yêu cầu chất lượng của các khu vực khác trên thế giới như Châu Âu và Bắc Mỹ.

3.2. Nhiều đợt đánh giá và tập huấn về quản lý chất lượng giáo dục đại học ở các nước ASEAN bao gồm cả Việt Nam trong những năm gần đây có sự tham gia của các chuyên gia châu Âu và Úc, thậm chí các chuyên gia Hoa Kỳ, Hội đồng Anh và Hồng Kong khi sang tập huấn về giáo dục đại học cho Việt Nam đều có tham chiếu Bộ tiêu chuẩn AUN-QA để phân tích làm sáng tỏ thêm các vấn đề chất lượng ở ASEAN hoặc đối chiếu với các chuẩn trong khu vực.

Ngoài ra, các lãnh đạo giáo dục đại học Việt Nam còn có cơ hội gia nhập Mạng lưới chất lượng Châu Á-Thái Bình Dương (APQN) và Mạng lưới chất lượng giáo dục đại học quốc tế (INQAHEE),... mà trong đó AUN cũng có vai trò quan trọng.

3.3. Khi tham gia đánh giá kiểm định các chương trình đào tạo hoặc các đợt tập huấn trong khu vực, chúng ta cũng được chia sẻ các bài học kinh nghiệm hay (best practices) của các trường đại học, các ngành học tiên tiến trong khu vực, vì Bộ tiêu chuẩn đánh giá theo AUN-QA còn có mức 5-6 trên thang điểm 7 cho biết các hoạt động được đánh giá là “having best practices”.

Một số chuyên gia, đánh giá viên AUN của Việt Nam đã bắt đầu được tham gia vào các Đoàn đánh giá AUN đi đánh giá các trường trong khu vực, từ đó có điều kiện chia sẻ kinh nghiệm với các trường đại học trong nước.

3.4. Các chuẩn và mô hình chất lượng theo AUN-QA đòi hỏi các hoạt động phát triển đồng bộ theo quy trình PDCA (Plan-Do-Check-Act) liên tục ở mọi giai đoạn nhằm phòng ngừa sai sót ở đầu ra ở mức tối đa, đồng thời xây dựng văn hóa chất lượng một cách đồng bộ, tránh các tình trạng đối phó và hình thức như:

(1) Làm việc một cách tự phát thiếu kế hoạch, xây dựng kế hoạch thiếu mục tiêu, cơ sở và tầm nhìn; (2) xây dựng “kế hoạch treo”;

(3) Thực hiện đối phó cho xong không rõ hiệu quả mức tác động ra sao vì thiếu đánh giá hoặc (4) đánh giá xong nhưng không hề sử dụng kết quả đánh giá để cải tiến liên tục, rút kinh nghiệm cho các giai đoạn sau và đặc biệt là (5) thiếu chia sẻ kinh nghiệm qua quá trình đánh giá và cải tiến làm nền tảng cho việc tập hợp các khó khăn rủi ro cũng như kinh nghiệm giải quyết cho hoạt động quản lý rủi ro.

3.5. Việc đánh giá chương trình đào tạo nhấn mạnh các yếu tố và yêu cầu như (1) kết quả học tập dự kiến được xây dựng một cách khoa học và nhất quán;

(2) Kỹ năng chuyển đổi (transferable skills) và học tập suốt đời; (3) triết lý giáo dục toàn diện và lấy người học làm trung tâm;

(4) Xây dựng các tiêu chí đánh giá nhằm đo lường được chuẩn đầu ra/kết quả đầu ra mong đợi một cách khoa học có độ giá trị và tin cậy cao;

(5) Hệ thống giám sát tiến độ của người học từ đầu vào đến đầu ra và (6) quy trình hoạt động đảm bảo chất lượng bên trong hiệu quả hỗ trợ cho việc cải tiến liên tục trên cơ sở ý kiến các bên liên quan.

Các yêu cầu và khái niệm trên có khi chưa hề xuất hiện trong giáo dục đại học Việt Nam một thập niên trước đây.

Việc nhận ra những điểm yếu hạn chế giúp cho các trường đại học Việt Nam từng bước hoàn thiện từ năng lực đội ngũ đến hệ thống chính sách và sự đầu tư hiệu quả.

3.6. Các trường đại học Việt Nam có điều kiện mở rộng quan hệ hợp tác giao lưu khi làm việc với các chuyên gia từ các trường đại học ASEAN, tạo điều kiện học tập cho cả đội ngũ cán bộ giảng viên và sinh viên, học viên,...

3.7. Các trường đại học Việt Nam từng bước học hỏi các biện pháp cụ thể để triển khai phương thức dạy và học tích cực, lấy người học làm trung tâm, động cơ để nâng cao năng lực hội nhập và kỹ năng mềm cho sinh viên như cải tiến hoạt động dạy và học tiếng Anh, lồng ghép kỹ năng mềm, giao tiếp, văn hóa,... và nối kết doanh nghiệp, cộng đồng tốt hơn.

3.8. Nâng cao năng lực cho 2 nhóm đối tượng (1) lãnh đạo quản lý giáo dục đại học (năng lực ra quyết định, quản lý chương trình, quản lý chất lượng nhân sự, dự án, hợp tác,...) và (2) giảng viên (giảng dạy, kiểm tra đánh giá, tư vấn sinh viên, ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy học,...) để đáp ứng chuẩn khu vực.

3.9. Sau cùng, Bộ tiêu chuẩn này quan tâm cả đến sứ mệnh quan trọng thứ ba của trường đại học là phục vụ cộng đồng (community outreach/service) vốn trước đây chưa được chú ý nhiều ở Việt Nam hoặc chưa được triển khai một cách bài bản.

Để thành trường đại học định hướng nghiên cứu cũng cần phải lưu ý gắn liền hoạt động nghiên cứu với nhu cầu xã hội, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội.

Việc hội nhập về chuẩn đào tạo, nghiên cứu và phục vụ cộng đồng mở ra nhiều hướng phát triển, đổi mới cho nhà trường đại học Việt Nam.

4. Một số kiến nghị, đề xuất cho việc phát triển bền vững giáo dục đại học Việt Nam

Các trường đại học Việt Nam cần nắm bắt cơ hội và từng bước điều chỉnh chính sách và hoạt động theo yêu cầu của AUN một cách hài hòa và phù hợp.

Bài học kinh nghiệm cho việc xây dựng phương hướng phát triển là nhà trường cần có các biện pháp, giải pháp đồng bộ hơn trong toàn trường, cụ thể như sau:

(1) Quan tâm đầu tư thêm nhân lực, vật lực và tài lực cho các hoạt động đảm bảo chất lượng, phát triển hệ thống thông tin dữ liệu tốt, hiện đại và hiệu quả phục vụ hoạt động ra quyết định cải tiến đúng đắn, khách quan và phù hợp;

(2) Động viên cán bộ lãnh đạo, giảng viên, nhân viên cùng vượt qua những khó khăn, tạo môi trường phát triển chuyên môn/học thuật, môi trường quan hệ đồng nghiệp thân thiện biết chia sẻ để phát huy tâm huyết của đội ngũ cán bộ, giảng viên, nhân viên trong công tác đổi mới phát triển để hội nhập, cần thường xuyên học hỏi nâng cao năng lực quản lý chất lượng và làm việc theo quy trình PDCA;

(3) Nhà trường cùng các khoa/bộ môn cần xây dựng lộ trình tự đánh giá theo AUN-QA và thực hiện từng kế hoạch cải tiến trước và sau khi đánh giá, thực hiện chu kỳ đảm bảo chất lượng liên tục;

Và (4) mở rộng các quan hệ hợp tác trong khu vực về đảm bảo và nâng cao chất lượng, giao lưu trao đổi học hỏi,...

Về hoạt động đào tạo, các lãnh đạo khoa/bộ môn và các cán bộ quản lý chuyên môn đào tạo, thành viên Hội đồng Khoa học và đào tạo/Nhóm chuyên trách chương trình đào tạo và giảng viên cần phải thường xuyên trau dồi hiểu biết, kinh nghiệm của các nước trong khu vực về xây dựng và phát triển chương trình đào tạo, đề cương môn học, hoạt động giảng dạy và kiểm tra đánh giá, các tiêu chuẩn kiểm định đánh giá chương trình đào tạo trong khu vực ASEAN và từng bước các khu vực khác,... chủ động tích cực thường xuyên tham gia hoàn thiện, cải tiến/đổi mới theo hướng nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo.

Lãnh đạo cần tuyên truyền sao cho giảng viên ý thức tự nguyện tiếp thu các góp ý của đoàn đánh giá ngoài để nâng cao chất lượng giảng dạy, kiểm tra đánh giá và phục vụ sinh viên hiệu quả hơn theo tinh thần lấy người học làm trung tâm.

Đơn vị phải chủ động khuyến khích sinh viên tham gia đóng góp ý kiến, dựa trên góp ý phản hồi của sinh viên và kết quả đánh giá ngoài, định kỳ rà soát, cập nhật và thay đổi chương trình đào tạo thông qua Hội nghị nhà tuyển dụng/cựu sinh viên và lấy ý kiến chuyên gia để chương trình đào tạo đáp ứng được yêu cầu xã hội/thị trường lao động trong nước và trong khu vực.

Cần tăng cường các cuộc trao đổi với đồng nghiệp, tập huấn, tham gia hội thảo, dự giờ giảng, tự học hỏi qua mạng, đóng góp sáng kiến góp phần vào việc nâng cao chất lượng qua các tương tác với sinh viên, cựu sinh viên và đồng nghiệp, với phụ huynh, với xã hội bên ngoài, nhà tuyển dụng, cán bộ các phòng ban, xây dựng thói quen làm việc theo nhóm, phát triển kỹ năng làm việc nhóm, phối hợp hiệu quả trong đơn vị của mình và trong toàn trường, để ngày càng phát triển tốt hơn.

Về hoạt động nghiên cứu và phục vụ cộng đồng, đội ngũ cán bộ giảng viên, nghiên cứu viên cần xem hoạt động nghiên cứu và phục vụ cộng đồng là hoạt động bắt buộc không thể thiếu giống như hoạt động giảng dạy, là điều kiện để được tiếp tục tuyển dụng lâu dài, để đánh giá thường xuyên định kỳ, nâng bậc lương cũng như thăng tiến.

Cần xây dựng kế hoạch, hồ sơ nghiên cứu và phục vụ cộng đồng của từng giảng viên, nghiên cứu viên nâng cao năng lực giao lưu trao đổi, hợp tác trong nghiên cứu khoa học với các học giả trong khu vực qua các bài báo viết chung, hội nghị, hội thảo quốc tế, công trình nghiên cứu chung, từng bước nắm bắt các chuẩn đạo đức trong nghiên cứu khoa học, luật sở hữu trí tuệ,...

Các hoạt động phục vụ cộng đồng, liên kết doanh nghiệp, địa phương cũng là những hoạt động vừa đáp ứng sứ mạng, mục tiêu của nhiều trường đại học Việt Nam hiện nay, vừa góp phần đem lại thương hiệu cho nhà trường và đồng thời giúp sinh viên tham gia để phát triển nhiều kỹ năng xã hội, kỹ năng giao tiếp, động cơ học tập suốt đời và cơ hội tiếp xúc với bối cảnh việc làm và hoạt động đóng góp cho xã hội sau khi ra trường.

Do đó, cần có những chính sách cụ thể từ phía nhà trường để phát triển các hoạt động này.

Kết luận

Thay đổi là cần thiết và không thể tránh được vì chương trình đào tạo là sản phẩm mang tính thời đại, cần phải được cập nhật cho phù hợp với thực tiễn theo yêu cầu của nhà tuyển dụng và xã hội, vai trò của giảng viên và người học cũng thay đổi do bối cảnh công nghệ thông tin bùng nổ phát triển nhanh chóng mạnh mẽ.

Chương trình cần được phát triển liên tục, toàn diện, và có tính hệ thống.

Nhà trường còn cần phát triển đồng bộ về hoạt động nghiên cứu khoa học và phục vụ cộng đồng, đồng thời cũng góp phần phát triển hoạt động đào tạo và nâng cao thương hiệu của trường.

Việc đánh giá cấp cơ sở và chương trình đào tạo theo AUN-QA góp phần xây dựng ý thức và thói quen tự đánh giá liên tục, từng bước xây dựng mục tiêu kế hoạch chất lượng phù hợp và cam kết hành động theo chất lượng, điều chỉnh liên tục các hoạt động của nhà trường.

Việc hội nhập ASEAN về giáo dục đại học giúp nâng cao nhận thức là việc đáp ứng các yêu cầu chất lượng hiện nay mang tính sống còn trong bối cảnh ngày càng nhiều cạnh tranh giữa các trường đại học.

Đồng thời cũng nhiều cơ hội hợp tác để phát triển, dần dần hình thành văn hóa chất lượng qua việc nâng cao hiểu biết về Bộ tiêu chuẩn AUN-QA, có động cơ cải tiến chất lượng hiệu quả.

Tài liệu tham khảo

1. AUN (2015). Guide to AUN-QA Assessment at Programme Level (version 3.).

Bangkok, Thailand: ASEAN University Network.

2. AUN (2016). Guide to AUN-QA Assessment at Institutional Level (version 2.).Bangkok, Thailand: ASEAN University Network.

3. Betts, M. & Smith, R. (1998). Developing the Credit-based Modular Curriculum in Higher Education. Bristol, PA: Falmer Press.

4. Dimmock, C. & Walker, A. (2005). Educational Leadership - Culture and Diversity. California, CA: SAGE Publications.

5. Nguyen Duy Mong Ha & Bui Ngoc Quang (2014). Factors Influencing the Process of Developing Quality Culture at the University of Social Sciences and Humanities, Vietnam National University-Ho Chi Minh City. Asian Journal of Humanities and Social Sciences, 2(4), 1-8.

6. Nguyễn Duy Mộng Hà, Bùi Ngọc Quang (2015). Thực trạng xây dựng văn hóa chất lượng tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, Tập 18, Số X5,132-139.

7. Nguyễn Duy Mộng Hà, Nguyễn Thị Thi Thu, Bùi Ngọc Quang (2015). Áp dụng Bộ tiêu chuẩn AUN-QA cấp chương trình đào tạo ở Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh: thực tiễn và kinh nghiệm. Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, Số 20, 106-114.

8. Phạm Thành Nghị (2000). Quản lý chất lượng giáo dục đại học. Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

9. Vroeijenstijn Ton (2008). Sổ tay áp dụng Bộ tiêu chuẩn chất lượng AUN trong tự đánh giá chương trình đào tạo. Thành phố Hồ Chí Minh: NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

10. Vũ Thị Phương Anh (2015). Đối sánh kết quả đánh giá các chương trình đạt chuẩn AUN của Việt Nam giai đoạn 2009-2013. Tạp chí Phát triển & Hội nhập, 20(30), 81-86.

Nguyễn Duy Mộng Hà - Bùi Ngọc Quang