LTS: Trong không khí ngày Tết, nhà giáo Nguyễn Trọng Bình từ Cần Thơ chia sẻ những cảm nhận về những bài thơ về mùa xuân giàu cảm xúc của "thi sĩ chân quê" Nguyễn Bính.
Tòa soạn trân trọng gửi đến độc giả.
Trong phong trào Thơ mới Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945, có lẽ Nguyễn Bính (1918-196) là một trong những nhà thơ viết về đề tài mùa xuân nhiều nhất.
Có thể kể ra đây hàng loạt những thi phẩm rất nổi tiếng viết về mùa xuân của ông như:
Mưa xuân, Xuân về, Mùa xuân xanh, Thơ xuân, Tết của mẹ tôi, Cô lái đò, Xuân tha hương, Xuân vẫn tha hương, Xuân lại tha hương, Sao chẳng về đây, Trở về quê cũ…
Điều đặc biệt là khi đọc những bài thơ xuân này của Nguyễn Bính người đọc không khỏi ngạc nhiên về cách “nhà thơ chân quê” nhìn về mùa xuân ở rất nhiều phương diện và cung bậc cảm xúc, tình cảm khác nhau.
Ảnh minh họa đăng trên Sknc.qdnd.vn |
Mùa xuân và cảnh sinh hoạt ngày Tết
Nói về cảnh sinh hoạt ngày Tết khi xuân về trong Phong trào Thơ mới Việt Nam, nhiều người cũng thường nhắc đến một nhà thơ cùng thời với Nguyễn Bính đó là Đoàn Văn Cừ.
Với hàng loạt những thi phẩm như: Tết, Tết quê bà, Chơi xuân, Chợ làng vào xuân, Chợ tết…, có thể nói, Đoàn Văn Cừ là một bậc thầy trong việc tái hiện cảnh sinh hoạt ngày Tết dịp xuân về.
Hoài Thanh - tác giả Thi nhân Việt Nam cho rằng: “Nghĩ đến Đoàn Văn Cừ là tôi nghĩ đến Tết. Cái tên Đoàn Văn Cừ trong trí tôi đã lẫn với bánh chưng, mùi thuốc pháo, vị mứt gừng”.
Tuy vậy, nói về cảnh sinh hoạt ngày Tết mà bỏ qua Nguyễn Bính cũng sẽ là một thiếu sót lớn.
So với Đoàn Văn Cừ tuy lượng tác phẩm tái hiện cảnh sinh hoạt ngày Tết của Nguyễn Bính không nhiều bằng nhưng về “chất” thì cũng không hề kém cạnh.
Nguyễn Bính vốn được mệnh danh là nhà thơ “chân quê”, vì vậy mùa xuân và những cảnh sinh hoạt khi xuân về trong thơ ông bao giờ cũng mang một nét đặc trưng của làng quê miền Bắc Việt Nam dân dã, thanh bình và ấm áp.
Từng đàn con trẻ chạy xun xoe
Mưa tạnh trời quang nắng mới hoe
Lá nõn nhành non ai tráng bạc
Gió về từng trận, gió bay đi
Thong thả dân gian nghỉ việc đồng
Lúa thì con gái mượt như nhung
Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng
Ngào ngạt hương bay bướm vẽ vòng.
(Xuân về)
Với Nguyễn Bính nhắc đến cảnh sinh hoạt ngày Tết không thể không nhắc đến những dịp lễ hội và đi chùa lễ Phật:
Có những ông già tóc bạc phơ
Rượu đào đôi chén bút đề thơ
Những bà tóc bạc hiền như Phật
Sắm sửa hành trang trẩy hội chùa.
(Thơ xuân)
Tháng giêng vừa tết đầu xuân
Xanh um lá mạ, trắng ngần hoa cam
Mưa xuân rắc bụi quanh làng
Bà già sắm sửa hành trang đi chùa
Ông già vào núi đề thơ
Trai tơ đình đám, gái tơ hội hè...
(Tỳ bà truyện)
Nguyễn Bính cũng hãy tái hiện cảnh xuân về, Tết đến bằng những hình ảnh rất cổ kính.
Đó là mùa xuân của những “thời trước” trong tiềm thức và trí tưởng tượng rất độc đáo của nhà thơ:
Từng gã thư sinh biếng chảy đầu
Một mình mơ ước chuyện mai sau
Lên kinh thi đỗ làm quan Trạng
Công chúa cài trâm thả tú cầu!
(Thơ xuân)
Không chỉ tái hiện cái không khí ấm áp mà ai cũng có thể cảm nhận khi mùa xuân về, Nguyễn Bính còn tỏ ra rất tinh tế khi tái hiện những việc làm rất cụ thể nhằm chuẩn bị đón Tết trong mỗi gia đình Việt.
Bài thơ Tết của mẹ tôi là một ví dụ tiêu biểu cho vấn đề này.
Tết đến, có lẽ người phụ nữ với chức phận của một người mẹ, người vợ - người nội trợ trong gia đình - là người vất vả bận bịu nhất.
Họ phải tất bật chuẩn bị đủ mọi việc lớn nhỏ trong nhà để chuẩn bị đón năm mới.
Nguyễn Bính viết:
Tết đến mẹ tôi vất vả nhiều
Mẹ tôi lo liệu đủ trăm chiều
Sân gạch tường hoa người quét lại
Vẽ cung trừ quỷ, giồng cây nêu
Nuôi hai con lợn tự ngày xưa
Mẹ tôi đã tính “Tết thì vừa”
Trữ gạo nếp thơm, mo gói bó
Dọn nhà dọn cửa, rửa bàn thờ…
Mọi thứ đã chuẩn bị xong, cổ bàn rước ông bà đêm giao thừa cũng đã hoàn tất, bà mẹ gọi các con lại để dặn dò:
Mẹ tôi gọi cả các em tôi
Đến bên mà dặn: Sáng ngày mai
Các con phải dậy sao cho sớm
Đầu năm, năm mới phải lanh trai!
Mặc quần mặc áo lên trên nhà
Thắp hương thắp nến lễ ông bà
Chớ có cãi nhau chớ có quấy
Đánh đổ, đánh vỡ như người ta.
Ngày Tết, một trong niềm vui lớn nhất của những đứa trẻ con là được người lớn tặng bao lì xì và người mẹ trong bài thơ này quả thật rất chu đáo:
Sáng ngày mồng một sớm tinh sương
Mẹ tôi cấm chúng tôi ra đường
Mở hàng mỗi đứa “năm xu rưỡi”
Rửa mặt hoa mùi nước đượm hương!
Và sau khi đã chu toàn mọi thứ cho gia đình và chồng con, người phụ nữ - người mẹ, người vợ mới dành cho mình chút thời gian để vui vẻ và thụ hưởng chút ít hương vị ngày Tết:
Mẹ tôi uống hết một cốc rượu
Mặt người đỏ tía vì hơi men
Người rủ cô tôi đánh tam cúc
Cười ầm tốt đỏ đè tốt đen.
Như vậy, có thể nói trong phong trào Thơ mới cùng với Đoàn Văn Cừ, những bài thơ xuân của Nguyễn Bính đã làm cho bức tranh ngày Tết Việt Nam nhất là ở những làng quê thêm phần rộn rã và tràn ngập tiếng cười thi vị.
Mùa xuân và những câu chuyện tình dang dở
Mùa xuân là mùa của tình yêu, mùa của sự viên mãn và hạnh phúc lứa đôi, ấy vậy mà với Nguyễn Bính, mùa xuân có khi lại gắn với những câu chuyện tình dang dở.
Tiêu biểu cho vấn đề này là hai bài thơ bất hủ: Mưa xuân và Cô lái đò.
Cả hai bài thơ đều là những dòng kí ức buồn về sự lở dở trong tình yêu của những cô gái quê mà nguyên nhân là do người yêu đã quên lời hẹn ước.
Mưa xuân là câu chuyện của cô thôn nữ làm nghề dệt vải mới bước vào tuổi yêu.
Đó là một tình yêu ngây thơ trong sáng và đẹp như “cây lụa trắng” thế nhưng đã nhanh chóng tan vỡ vì sự sai hẹn của người yêu trong đêm hội Chèo.
Em là cô gái bên khung cửi
Dệt lụa quanh năm với mẹ già
Lòng trẻ còn như cây lụa trắng
Mẹ già chưa bán chợ làng xa
Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xuân lớp lớp rụng vơi đầy
Hội chèo làng Đặng về ngang ngõ
Mẹ bảo: “Thôn Đoài hát tối nay!”
Lòng thấy giăng tơ một một mối tình
Em ngừng tay lại giữa thoi xinh
Hình như hai má em bừng đỏ
Có lẽ là em nghĩ đến anh!
Tình yêu vừa chớm hé trong lòng cô gái trẻ thế nhưng cũng nhanh chóng tan vỡ vì sự lỗi hẹn của người yêu:
Chờ mãi anh sang chẳng thấy sang
Thế mà hôm nọ hát bên làng
Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn
Để cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng!
Tuy vậy, tình yêu của “cô gái bên khung cửi” có lẽ cũng chỉ mới dừng lại ở những rung động đầu đời vì vậy mà khi người yêu bội ước cô gái chỉ nhẹ nhàng trách móc chứ cũng không vật vã, đau đớn:
…Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày
Bao giờ em mới gặp anh đây
Bao giờ hội Đặng đi ngang ngõ
Để mẹ em rằng: hát tối nay?
Cũng giống như “cô gái bên khung cửi”, tình yêu của “cô lái đò” trong bài Cô lái đò cũng lở dở vì sự bội ước của người yêu:
Xuân đã đem mong nhớ trở về
Lòng cô gái ở bến sông kia
Cô hồi tưởng lại ba xuân trước
Trên bến cùng ai đã nặng thề.
Nhưng rồi người khách tình xuân ấy
Đi biệt không về với núi sông
Đã mấy lần xuân trôi chảy mãi
Mấy lần cô gái mỏi mòn trông
Tin lời hẹn ước, mỏi mòn chờ đợi, thế nhưng đã ba mùa xuân trôi qua mà người khách năm xưa vẫn không trở lại; không thể chờ đợi mãi “cô lái đò” đành lỗi ước với người xưa.
Câu chuyện tình yêu thế là kết thúc, “cô lái đò” hôm nào giờ đã theo chồng, vắng cô làm bao khách sang sông thấy nao nao một nỗi buồn!
Xuân này đến nữa đã ba xuân
Đốm lửa tình duyên tắt nguội dần
Chẳng lẽ ôm lòng chờ đợi mãi
Cô đành lỗi ước với tình quân
Bỏ thuyền, bỏ bến bỏ dòng trong
Cô lái đò kia đi lấy chồng
Vắng bóng cô em từ dạo ấy
Để buồn cho những khách sang sông.
Mùa xuân và nỗi niềm của kẻ lưu lạc, tha hương
Xuân về, Tết đến là dịp để mọi người tạm gác lại công việc để nghỉ ngơi vui vẻ; là dịp để những người xa quê trở về đoàn tụ trở và sum hợp với gia đình, dòng tộc…
Ấy vậy mà khi xuân về, Tết đến cũng không ít người phải đón xuân trong nỗi ngậm ngùi vì vẫn còn tha hương, lưu lạc.
Có lẽ trong thi ca Việt Nam hiện đại không có nhà thơ nào viết về vấn đề này hay và xúc động như Nguyễn Bính.
Hàng loạt ba thi phẩm Xuân tha hương, Xuân vẫn tha hương, Xuân lại tha hương in trong tập Mười hai bến nước xuất bản năm 1942 là những dòng tâm sự u buồn này của thi nhân.
Trong đó đặc biệt hay nhất là bài Xuân tha hương với cặp câu mở đầu được tác giả lặp đi lặp lại rất hay và xúc động:
Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây một tấm lòng!
Trong những ngày thường, tha hương vốn đã rất buồn thế nhưng ngay đúng những dịp lễ, Tết mà vẫn tha hương, vẫn phải lưu lạc trên xứ người thì nỗi buồn ấy còn chất chứa đến mức nào.
Trong những bài thơ viết về đề tài tha hương của mình, Nguyễn Bính thường đề “gửi chị Trúc” và bài thơ thường là tâm sự của một đứa em đi xa gửi thư về thăm chị cùng gia đình, hàng xóm.
Xuân tha hương là bài thơ điển hình cho lối viết này của ông.
Bài thơ là tâm trạng và nỗi buồn chất ngất của một “cái tôi” lưu lạc nơi xứ người vì biết rằng có “nguy cơ” Tết này mình không thể về lại quê nhà thăm người chị thân yêu.
Vì sao như vậy? Tất cả cũng chỉ vì cuộc sống khốn khó, tất cả cũng chỉ vì cái nợ “cơm, áo, gạo, tiền”:
Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây một tấm lòng…
…Áo rét ai đan mà ngóng đợi
Còn vài hôm nữa hết mùa đông
Cột nhà hàng xóm lên câu đối
Em đọc tương tư giữa giấy hồng
Gạo nếp nơi đây sao trắng quá
Mỗi ngày phiên chợ lại thêm đông
Thiên hạ đua nhau mà sắm Tết
Một mình em vẫn cứ tay không…
Tha hương đã lâu nhưng danh phận vẫn chưa có gì, Tết đến không thể về lại quê hương thăm người thân, điều này đã làm thi nhân thật sự rất não nùng:
Tết này chưa chắc em về được
Em gởi về đây một tấm lòng
Chao ôi, Tết đến em không được
Trông thấy quê hương thật não nùng…
Tuy vậy, não nùng nhất có lẽ là sự bạc bẽo của nhân tình thế thái:
Cố nhân chẳng biết làm sao ấy
Rặt những tin đồn chuyện bướm ong
Thôi em chả dám đa mang nữa
Chẳng buộc chân vào với chỉ hồng
Nàng bèo bọt quá em lăn lóc
Chấp nối nhau hoài cũng uổng công…
(Một trăm con gái thời nay ấy
Đừng nói ân tình với thuỷ chung)
Có thể nói, cái hay và độc đáo của bài thơ chính là từ tâm sự của một “cái tôi” cụ thể nhưng cũng đã khái quát một cách trọn vẹn tình cảnh và nỗi niềm của rất nhiều số phận tương tự trong cuộc đời.
Chỉ bằng một vài câu thơ nhưng Nguyễn Bính đã nói lên không biết bao nhiêu là tâm tư, nỗi niềm của những kiếp người tha hương khi mùa xuân về.
Thay lời kết
Có thể nói, đọc thơ xuân của Nguyễn Bính dù là với cung bậc nào người đọc cũng thấy nao nao một cảm giác nhớ nhung, thân thuộc bởi cái không khí cùng những nếp sinh hoạt quen thuộc trong ngày Tết cổ truyền của dân tộc.
Mùa xuân trong thơ ông không đơn giản chỉ là những cảnh xuân mà quan trọng hơn đó còn là tình xuân.
Phải chăng đó cũng chính là cái tình của một người luôn trân trọng cái nét đẹp dịu dàng, đằm thắm bao đời của làng quê Việt Nam; cái tình của một người “nhà quê” tuy có “đi tỉnh” nhiều lần nhưng cái “hương đồng gió nội”, cái “hồn” dân tộc, “hồn quê” hương không bao giờ mất đi!?
Bên cạnh đó, cho dù thơ xuân của Nguyễn Bính có không ít thi phẩm khi đọc lên làm chúng ta không khỏi ngậm ngùi vì sự lỡ dở trong tình yêu hay nỗi “mặc cảm” chia lìa của kẻ tha hương khi xuân về Tết đến.
Tuy vậy, tất cả nói cho cùng đó cũng chính là tâm trạng và nỗi buồn chung của một thế hệ trí thức Việt Nam trước 1945.
Và riêng với Nguyễn Bính, đó còn là nỗi buồn của một cái tôi rất có ý thức về thân phận, luôn “tự vấn” lại mình chứ không hẳn chỉ là nỗi buồn của kẻ “giang hồ mê chơi quên quê hương”:
- Xuân sang xao xuyến lòng tôi quá
Tôi đã xây tròn sự nghiệp chưa?
Hay:
- Chẳng đợi mà xuân vẫn cứ sang
Phồn hoa đô hội hết huy hoàng
Sáng nay sực tỉnh sầu đô thị
Tôi đã về đây rất vội vàng!