Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cho biết, đến cuối năm 2016, các chỉ tiêu nợ về cơ bản nằm trong giới hạn cho phép: nợ công ở mức 63,7% GDP, nợ của Chính phủ ở mức 52,6% GDP, nợ nước ngoài của quốc gia ở mức 44,3% GDP, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ là 14,8% tổng thu Ngân sách Nhà nước.
Bộ trưởng Bộ Tài chính - ông Đinh Tiến Dũng. ảnh: VGP. |
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, cũng đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế trên hai mặt chủ yếu:
Thứ nhất, về mặt pháp luật đã bộc lộ một số bất cập: còn có quan điểm khác nhau về phạm vi nợ công, cần có thống nhất như việc có tính các khoản nợ phát sinh từ điều hành ngân sách, nợ của doanh nghiệp nhà nước, nợ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam vào nợ công hay không?
Yêu cầu đặt ra đối với việc có khuôn khổ pháp lý đầy đủ, phù hợp cho việc lập, thực hiện, giám sát thực hiện chiến lược, chương trình, kế hoạch về nợ công để tương thích với các Luật mới ban hành như Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Đầu tư công và tiệm cận với thông lệ tốt của quốc tế.
Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cho biết, trong giai đoạn 2010-2016, đã phát hành trên 1.277 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ với tốc độ tăng bình quân 36%/năm; Huy động được khối lượng lớn vốn ODA, ưu đãi từ các nhà tài trợ nước ngoài với tổng trị giá cam kết đạt 36,6 tỷ USD, trong đó đã giải ngân 32,8 tỷ USD (khoảng 658 nghìn tỷ đồng) nhằm tăng cường nguồn lực cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đã thực hiện bảo lãnh cho các doanh nghiệp, ngân hàng chính sách huy động 632,8 nghìn tỷ đồng nhằm thực hiện chương trình, dự án trọng điểm, cấp bách, các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng đòi hỏi vốn đầu tư lớn theo chủ trương của Đảng, Nhà nước. Ngoài ra, chính quyền địa phương đã huy động 139 nghìn tỷ đồng thông qua phát hành trái phiếu, vay lại vốn vay nước ngoài của Chính phủ cho phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. |
Chưa phân định rõ ràng và sự phối hợp chưa chặt chẽ giữa quản lý nợ công, quản lý ngân sách và quản lý đầu tư công.
Yêu cầu tách bạch quy định về quản lý vốn vay của Chính phủ theo từng nguồn vốn huy động để đảm bảo quản lý chặt chẽ, hiệu quả hơn trong điều kiện Việt Nam dần không còn tiếp cận nhiều vốn vay ODA.
Các quy định về cho vay lại vốn vay nước ngoài của Chính phủ, cấp và quản lý bảo lãnh của Chính phủ cũng đã bộc lộ những hạn chế cả về đối tượng, điều kiện cho vay lại, cấp bảo lãnh và cơ chế quản lý, giám sát sử dụng vốn vay, kiểm soát rủi ro.
Bên cạnh đó, một số quy định về phân định chức năng, nhiệm vụ của các cấp, các cơ quan có liên quan trong quản lý nợ công đã không còn phù hợp.
Thứ hai, công tác quản lý nợ công cũng đã bộc lộ một số bất cập chủ yếu như: nợ công, nợ Chính phủ tăng nhanh gây áp lực lớn lên nghĩa vụ trả nợ (ngoài sự gia tăng nợ trong nước), đáng chú ý là đã có sự gia tăng đáng kể dư nợ vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài (năm 2015 tăng 6,5 lần so với năm 2001), trong đó tập trung vào 3 chủ nợ lớn, đó là:
Nhật Bản (tăng 6,8 lần), Ngân hàng Thế giới (tăng 11,5 lần) và Ngân hàng Phát triển Châu Á (tăng 20,3 lần);
Việc phân bổ, sử dụng vốn vay cho đầu tư còn dàn trải, hiệu quả chưa cao, trên thực tế đã có một số dự án vay lại vốn vay ODA, ưu đãi, bảo lãnh Chính phủ phát sinh rủi ro không trả được nợ, phải thực hiện tái cơ cấu tài chính, chuyển sang hình thức Nhà nước đầu tư hoặc Quỹ Tích lũy phải ứng trả thay; còn thiếu gắn kết giữa quyết định đầu tư với cân đối trả nợ.
Giật mình thon thót với phát biểu của "ông nghị" Dương Ngọc Hải |
Nguyên nhân chủ yếu là do cơ cấu nền kinh tế, mô hình tăng trưởng dựa vào vốn là chính; cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội còn yếu kém, áp lực vốn đầu tư lớn trong khi tích lũy nội địa nền kinh tế còn mỏng; quy mô thị trường vốn trong nước còn nhỏ; tác động bất lợi của kinh tế thế giới.
Bên cạnh đó, vẫn còn tâm lý “bao cấp” từ Nhà nước, nhất là vốn ODA và trái phiếu Chính phủ; năng lực của một số chủ dự án còn hạn chế.
Vẫn còn tình trạng thất thoát, lãng phí trong sử dụng vốn đầu tư; chức năng, nhiệm vụ quản lý nợ công còn chồng chéo, chưa gắn trách nhiệm vay và trả nợ với việc phân bổ, sử dụng nợ công.
Việc kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, quyết toán và báo cáo thực hiện đối với vấn đề nợ công chưa được chú trọng đúng mức.
Cũng theo ông Đinh Tiến Dũng, về điều kiện cho vay lại vốn vay nước ngoài của Chính phủ, luật hiện hành có quy định về điều kiện cho vay lại vốn vay nước ngoài của Chính phủ. Một mặt đáp ứng được yêu cầu tiếp cận vốn vay của các chương trình, dự án.
Tuy nhiên, trước yêu cầu tăng cường quản lý chặt chẽ nợ công, đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn vay thì các điều kiện về cho vay lại vốn vay nước ngoài của Chính phủ cần phải chặt chẽ hơn.
Theo đó, Dự thảo Luật quy định điều kiện được vay lại gồm: tình hình tài chính lành mạnh; tổng mức dư nợ vay lại chịu rủi ro tín dụng không vượt quá 15% vốn chủ sở hữu thực có của từng tổ chức tài chính - tín dụng; có mức xếp hạng tín nhiệm ngang bằng hoặc thấp hơn một bậc so với mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam, trừ ngân hàng chính sách của Nhà nước; thực hiện bảo đảm tiền vay theo quy định của pháp luật.
Tương tự, các quy định về điều kiện cho vay lại đối với doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp công lập có thu cũng được nâng cao và chặt chẽ hơn.
Tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ tiếp tục rà soát và bổ sung các quy định về đối tượng, phương thức, quy trình quản lý cho vay lại vốn vay nước ngoài, trong đó bổ sung các quy định chặt chẽ về thẩm định tài chính vay lại của các đối tượng đề nghị được vay lại vốn vay của Chính phủ (Điều 42 dự thảo Luật); đồng thời bổ sung nhằm tăng cường chế tài quản lý rủi ro cho vay lại (khoản 2, khoản 5 Điều 43 dự thảo Luật).
Về điều kiện cấp bảo lãnh Chính phủ:Bám sát quan điểm chỉ đạo tại Nghị quyết số 07/NQ-TW, dự thảo Luật bổ sung một số nội dung liên quan đến đối tượng, điều kiện, thẩm quyền quyết định chủ trương, hạn mức bảo lãnh, thẩm định khả năng trả nợ và xử lý rủi ro để siết chặt bảo lãnh Chính phủ nhằm kiềm chế tốc độ gia tăng nợ công.