PGS Phạm Quý Mười hiến kế để từng bước đưa tiếng Anh là ngôn ngữ thứ 2 hiệu quả

01/10/2024 06:14
Hồng Linh
0:00 / 0:00
0:00

GDVN - Để thực hiện thành công nhiệm vụ từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai, các cơ sở giáo dục cần lưu tâm nhiều hơn đến yếu tố người học.

Trong Kết luận số 91-KL/TW của Bộ Chính trị để tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI "Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế" có đề cập đến nhiệm vụ: “Tập trung nâng cao năng lực ngoại ngữ của học sinh, sinh viên, từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học. Khuyến khích các cơ sở giáo dục và đào tạo trong nước liên kết, hợp tác với các cơ sở giáo dục và đào tạo tiên tiến trên thế giới”.

Từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai là nhiệm vụ cần thiết, cấp bách

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Quý Mười - Trưởng khoa Toán, nguyên Trưởng phòng Khoa học và Hợp tác Quốc tế (Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng) đánh giá, nhiệm vụ trên là vô cùng quan trọng, cần thiết và cấp bách.

Điều này nhằm đáp ứng nhu cầu, mục tiêu chiến lược của đất nước là “hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng”, “nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế”, đồng thời góp phần vào quá trình đổi mới giáo dục và đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước hiện tại và tương lai.

PGS TS Phạm Quý Mười.jpg
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Quý Mười - Trưởng khoa Toán, Nguyên Trưởng phòng Khoa học và Hợp tác Quốc tế (Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng). Ảnh: NVCC.

Khi thực hiện được nhiệm vụ trên, không chỉ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, mà còn tạo ra những cơ hội, điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa.

Cụ thể, khi có công cụ là tiếng Anh, người học dễ dàng tiếp cận tri thức toàn cầu, tài liệu nghiên cứu và kiến thức từ các quốc gia phát triển, những nền văn hóa và công nghệ tiên tiến.

Người học sẽ có thể nâng cao trình độ chuyên môn, thúc đẩy tư duy sáng tạo và đổi mới trong công việc và học tập, từ đó, tăng tính cạnh tranh của nguồn nhân lực Việt Nam.

Cùng với đó, cơ hội làm việc với các công ty đa quốc gia, tham gia vào các dự án quốc tế, hợp tác nước ngoài cũng được mở rộng, tạo ra giá trị lớn cho người lao động, doanh nghiệp và nền kinh tế nói chung.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Quý Mười bày tỏ: "Năng lực tiếng Anh là cầu nối để xây dựng mối quan hệ tốt hơn với đối tác quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động hợp tác, đầu tư, thương mại, trao đổi văn hóa, khoa học kỹ thuật, đặc biệt là những lĩnh vực mới như công nghệ thông tin, tài chính, dịch vụ….

Hình ảnh và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế sẽ được nâng cao, góp phần thu hút đầu tư và du lịch, giúp đất nước chuyển mình sang nền kinh tế tri thức và phát triển bền vững".

Cũng theo thầy Mười, có không ít trở ngại mà cơ sở giáo dục phải đối diện trong quá trình thực hiện nhiệm vụ nâng cao năng lực ngoại ngữ cho người học, từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ 2.

Theo đó, một số khó khăn chung của các cơ sở giáo dục có thể kể đến như sau:

Thứ nhất, thách thức về đào tạo và bồi dưỡng giáo viên ngoại ngữ có chất lượng.

Thứ hai, sự hạn chế của hệ thống cơ sở vật chất, đặc biệt là trang thiết bị dạy và học ngoại ngữ.

Thứ ba, các chương trình học với nhu cầu thực tế chưa thực sự phù hợp.

Thứ tư, một số học sinh, sinh viên thiếu động lực học ngoại ngữ và chưa nhận thức rõ tầm quan trọng của nó trong cuộc sống và sự nghiệp.

Thứ năm, chênh lệch trong việc tiếp cận giáo dục giữa các khu vực đô thị và nông thôn.

Trong đó, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Quý Mười khẳng định, thách thức lớn nhất là chất lượng đội ngũ giáo viên.

Thầy Mười chỉ ra: "Người dạy là chủ thể quan trọng, quyết định sự thành công của quá trình dạy học. Họ không chỉ là người truyền đạt kiến thức, mà còn định hướng, tạo động lực cho học sinh. Nếu chất lượng giáo viên không được cải thiện, khó khăn trong việc nâng cao năng lực ngoại ngữ sẽ chưa thể được giải quyết.

Để khắc phục, chúng ta cần có các chương trình bồi dưỡng thường xuyên, tăng cường tuyển chọn giáo viên và đầu tư phát triển chuyên môn.

Bên cạnh đó, đào tạo nâng cao cho người dạy về phương pháp giảng dạy hiện đại, kỹ năng giao tiếp và sử dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy ngoại ngữ.

Chúng ta cũng có thể xem xét tuyển dụng giáo viên bản ngữ hoặc giáo viên có trình độ cao từ nước ngoài để tăng cường chất lượng giảng dạy và tạo môi trường giao tiếp tự nhiên cho người học.

Đồng thời, có thêm chính sách khuyến khích, động viên giáo viên tham gia các hội thảo, hội nghị quốc tế về giáo dục ngoại ngữ, tiếng Anh để cập nhật xu hướng mới và cải thiện kỹ năng chuyên môn.

Thiết lập hệ thống đánh giá thường xuyên về chất lượng giảng dạy của giáo viên, từ đó, có kế hoạch hỗ trợ và cải thiện hiệu quả giảng dạy.

Khuyến khích giáo viên sử dụng các nền tảng học tập trực tuyến để học sinh học tập chủ động và linh hoạt hơn".

Cũng theo thầy Mười, các đơn vị cần chú ý thêm đến vấn đề cơ sở vật chất, xây dựng hoặc cải tạo các phòng học ngoại ngữ với trang thiết bị hiện đại như máy chiếu, bảng tương tác và thiết bị nghe nhìn, đưa đến một môi trường học tập sinh động.

Tăng cường nguồn tài liệu học tập bằng cách xây dựng thư viện với sách, báo, tài liệu tiếng Anh, cũng như các tài nguyên trực tuyến; cung cấp phần mềm học ngoại ngữ và các ứng dụng di động để hỗ trợ việc học tập mọi lúc, mọi nơi.

Đảm bảo các phòng học có kết nối internet nhanh và ổn định, giúp học sinh có thể truy cập tài liệu học tập và tham gia các khóa học trực tuyến.

Như vậy, các cơ sở giáo dục cần xác định rõ mục tiêu, sứ mạng, tầm nhìn, xây dựng kế hoạch chiến lược dài hạn và trung hạn, trong đó, tập trung chuẩn bị đồng bộ, kỹ lưỡng về điều kiện cơ sở vật chất cũng như chất lượng và số lượng đội ngũ người dạy.

Cần có sự đầu tư hợp lý, để đảm bảo rằng các cơ sở giáo dục có đủ điều kiện đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng.

Cần chú ý thêm đến đặc điểm tâm lý và động lực học tập của người học

Ngoài việc nâng cao cơ sở vật chất và chất lượng đội ngũ giảng dạy, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Quý Mười khẳng định, các cơ sở giáo dục cũng cần lưu tâm đến nhiều khía cạnh khác để đảm bảo nhiệm vụ từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ 2 đạt kết quả cao nhất.

Trong đó, nguyên Trưởng phòng Khoa học và Hợp tác Quốc tế (Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng) đặc biệt nhấn mạnh đến yếu tố người học.

"Chúng ta cần nghiên cứu đặc điểm tâm lý, bao gồm những yếu tố thuộc về sở thích, nhu cầu và cách tiếp cận thông tin của người học.

Điều này giúp áp dụng các phương pháp giảng dạy phù hợp, tạo ra môi trường học tập tích cực và khuyến khích sự hứng thú trong việc học.

Động lực học tập của học sinh, sinh viên cũng rất quan trọng. Chỉ khi hiểu được nguyên nhân thúc đẩy những đối tượng này tham gia học tập, từ sự khao khát khám phá kiến thức đến mục tiêu nghề nghiệp trong tương lai, người dạy mới có thể thiết kế các hoạt động học tập hấp dẫn và có ý nghĩa.

Bên cạnh đó, khả năng tiếp thu của người học cần được xem xét kỹ lưỡng. Mỗi học sinh, sinh viên có một tốc độ tiếp nhận thông tin và phong cách học khác nhau.

Vì vậy, việc thiết kế chương trình học cần linh hoạt, phù hợp để nâng cao hiệu quả học tập, nhất là tạo điều kiện cho mọi học sinh, sinh viên đều có cơ hội phát huy tối đa tiềm năng của mình" - thầy Mười phân tích thêm.

sinh-vien-dai-hoc-calgray-day-tieng-anh-tai-truong-dai-hoc-su-pham-da-nang.jpg
Ảnh minh họa: Website Trường Đại học Sư phạm (Đại học Đà Nẵng).

Phó Giáo sư Phạm Quý Mười khẳng định, các cơ sở giáo dục cũng cần xây dựng hệ thống đánh giá chính xác, đa dạng và hiệu quả đối với người học, đồng thời, kiểm định chất lượng, xem xét hiệu quả của các chương trình ngoại ngữ, để có sự điều chỉnh kịp thời, cải thiện chất lượng giảng dạy.

Đồng thời, tăng cường kết nối với các tổ chức giáo dục nước ngoài; đẩy mạnh các chương trình trao đổi. Tích hợp việc dạy học bằng tiếng Anh để học sinh thấy được ứng dụng thực tế của ngoại ngữ trong các lĩnh vực khác.

Ngoài ra, phát triển kỹ năng mềm, như kỹ năng giao tiếp, làm việc nhóm và giải quyết vấn đề, tạo môi trường cho học sinh sử dụng tiếng Anh.

Để gỡ rối cho việc triển khai nâng cao năng lực ngoại ngữ của học sinh, sinh viên, tiến tới đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học cũng như tăng cường hợp tác, liên kết với các cơ sở giáo dục và đào tạo nước ngoài, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Quý Mười đề xuất một số nội dung như sau:

"Đề nghị Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, các Sở Giáo dục và Đào tạo phối hợp triển khai đồng bộ, hiệu quả 8 nhiệm vụ đã được nêu trong Kết luận số 91-KL/TW của Bộ Chính trị. Đây là nhiệm vụ then chốt, có tính tổng thể.

Hơn nữa, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần xác định rõ mục tiêu, từ đó, xây dựng kế hoạch tổng thể, dài hạn căn cứ trên những luận cứ khoa học và đặc điểm, điều kiện thực tế của từng vùng, miền, địa phương, các cơ sở giáo dục; dựa trên nhu cầu về nguồn nhân lực,… Không triển khai nhiệm vụ một cách đại trà đến tất cả các Sở Giáo dục và Đào tạo, các cơ sở giáo dục trên cả nước.

Ngoài ra, cần có chủ trương, quy hoạch chính sách, hệ thống văn bản, quy định yêu cầu, cho phép, hỗ trợ các đại học quốc gia, đại học vùng, các trường sư phạm trọng điểm giảng dạy một số ngành đào tạo đại học, sau đại học bằng tiếng Anh. Đây là nơi đào tạo nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, nâng cao tính cạnh tranh về nguồn nhân lực.

Từ đó, có thể triển khai hợp tác quốc tế trong đào tạo và nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, tiếp thu tri thức và tinh hoa văn hóa nhân loại, học hỏi những nền văn hóa, công nghệ tiên tiến và truyền bá văn hóa Việt Nam ra các nước trên thế giới.

Phó Giáo sư Phạm Quý Mười bày tỏ: "Cần có chủ trương, quy hoạch, chính sách, hệ thống văn bản, quy định yêu cầu, cho phép, hỗ trợ một số trường mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông (đóng trên các tỉnh, thành phố lớn, nơi có nhiều công ty, nhà máy, doanh nghiệp nước ngoài...) đào tạo hoàn toàn bằng tiếng Anh.

Các cơ sở giáo dục cần xây dựng kế hoạch đầu tư cơ sở vật phục vụ quá trình dạy học, đặc biệt là dạy tiếng Anh. Rà soát, cải tiến chương trình đào tạo. Xây dựng kế hoạch, nội dung bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, đặc biệt là giáo viên dạy tiếng Anh, giáo viên dạy các môn học bằng tiếng Anh.

Có cơ chế, chính sách thúc đẩy và ràng buộc giảng viên ở các đại học lớn (đại học quốc gia, đại học vùng) tăng cường nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ.

Chỉ có như vậy, mới có đủ nguồn lực, nhân lực tiếp thu và phát triển tri thức, công nghệ tiên tiến, tăng cường quá trình hợp tác, liên kết với các cơ sở giáo dục đào tạo nước ngoài một cách thực chất và đúng nghĩa".

Hồng Linh