Trải qua hơn nửa thế kỷ xây dựng và trưởng thành, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) đã có những bước phát triển vượt bậc, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển của PVN, xây dựng đội ngũ trí thức và khoa học công nghệ luôn là một giải pháp then chốt được quan tâm thực hiện trên mọi lĩnh vực: Tìm kiếm, thăm dò, khai thác; công nghiệp khí, công nghiệp điện, hóa - chế biến dầu khí và dịch vụ kỹ thuật dầu khí.
Cán bộ nghiên cứu của VPI khảo sát lấy mẫu môi trường ở khu vực nước sâu. |
Từ Đại hội Đảng bộ Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam lần thứ I (2010) đến Đại hội lần thứ II (2015) đều xác định phát triển nguồn nhân lực, nhất là đội ngũ trí thức và khoa học công nghệ, là các giải pháp đột phá để thực hiện Chiến lược phát triển Tập đoàn và ngành Dầu khí Việt Nam.
Đặc biệt, thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW, Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X “về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, Đảng ủy Tập đoàn đã chủ động, khẩn trương xây dựng kế hoạch và hướng dẫn các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể trực thuộc tổ chức học tập, quán triệt.
Ban đầu chỉ với số lượng khiêm tốn cán bộ kỹ sư được đào tạo từ Liên Xô cũ và các nước xã hội chủ nghĩa, đến nay PVN đã có được đội ngũ trí thức hùng hậu, được đào tạo bài bản từ các trường đại học trong nước và đặc biệt là từ các trường đại học, các viện nghiên cứu hàng đầu của các nước tiên tiến trên thế giới như: Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc, Canada, Na Uy, Hà Lan...
Số cán bộ khoa học công nghệ của toàn Tập đoàn ngày càng gia tăng, toàn Tập đoàn có hơn 3.000 người có trình độ sau đại học, trong số đó có những cán bộ có trình độ chuyên môn giỏi, đạt trình độ chuyên gia, có đủ khả năng thực hiện và tổ chức thực hiện những công việc, nhiệm vụ có hàm lượng khoa học cao.
Đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ của Tập đoàn đã cơ bản làm chủ được tất cả các lĩnh vực chuyên môn kỹ thuật, các khâu trong chuỗi công nghiệp dầu khí từ tìm kiếm thăm dò, khai thác đến chế biến dầu khí, công nghiệp khí, công nghiệp điện và dịch vụ kỹ thuật dầu khí.
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam: Trong khó khăn càng phải vững vàng |
Hiện nay, Tập đoàn có 2 viện nghiên cứu gồm: Viện Dầu khí Việt Nam, trực thuộc Tập đoàn và Viện Nghiên cứu Khoa học và Thiết kế dầu khí biển (Viện NIPI) trực thuộc Liên doanh Việt - Nga Vietsovpetro.
Với gần 40 năm xây dựng và trưởng thành, Viện Dầu khí Việt Nam đã được Tập đoàn đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại, đồng bộ ở Hà Nội và Khu công nghệ cao (quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh), tổng mức đầu tư khoảng gần 3.500 tỉ đồng với cơ sở vật chất và trang thiết bị phân tích, thí nghiệm đồng bộ, hiện đại.
Lực lượng cán bộ khoa học khoảng 600 cán bộ nghiên cứu được đào tạo, chọn lựa từ những trường đại học danh tiếng trong và ngoài nước, được trưởng thành, đúc rút kinh nghiệm trong môi trường thực tế, gắn với hoạt động sản xuất kinh doanh của Tập đoàn.
Viện Dầu khí Việt Nam đảm nhận được hầu hết các yêu cầu về phân tích mẫu dầu, khí, nước, hàng năm thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và kỹ thuật cho Tập đoàn (thông qua các hợp đồng khoa học công nghệ) với giá trị 150-200 tỉ đồng và cung cấp dịch vụ khoa học công nghệ cho các đơn vị thành viên, các nhà thầu dầu khí với giá trị khoảng 400-500 tỉ đồng.
Ngoài ra, trước nhu cầu đòi hỏi của thực tế sản xuất, nhiều đơn vị trong Tập đoàn đã thành lập trung tâm nghiên cứu để phục vụ cho chính nhu cầu của doanh nghiệp.
Ngoài các tổ chức nêu trên còn có các tổ chức như: Hội Dầu khí Việt Nam, Hội Doanh nhân trẻ Dầu khí gồm đội ngũ trí thức trẻ, có nhiệt huyết và năng lực, cùng nhau chia sẻ kinh nghiệm, kiến thức trong công tác.
Đội ngũ trí thức của Tập đoàn không chỉ được tổ chức trong các tổ chức đoàn thể chuyên về nghiên cứu khoa học công nghệ tập trung nêu trên, mà còn là lực lượng trực tiếp tham gia quản lý và hoạt động kỹ thuật vận hành sản xuất...
Đặc biệt, lực lượng cán bộ khoa học công nghệ dầu khí đã thực hiện những công trình khoa học có giá trị cao không chỉ có ý nghĩa khoa học mà còn có ý nghĩa thực tế lớn lao, làm lợi hàng nghìn tỉ đồng cho đất nước, góp phần khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên của đất nước, giúp Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia và phát triển bền vững Tập đoàn.
Ngày nay để đáp ứng yêu cầu trong thời kỷ nguyên số về xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức, qua thực tiễn phát triển của ngành Dầu khí cho thấy, Nhà nước cần có cơ chế đặc thù để tạo động lực phát triển khoa học công nghệ trong doanh nghiệp Nhà nước nhằm tận dụng tối đa tiềm năng và ưu thế của doanh nghiệp.
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đạt doanh thu 11 tháng vượt 453 nghìn tỷ đồng |
Trong đó cần có cơ chế khuyến khích, ưu tiên các cán bộ khoa học công nghệ trẻ để phát huy tối đa tiềm năng và tính tự chủ trong hoạt động khoa học công nghệ của lực lượng trí thức trong doanh nghiệp.
Xem xét bổ sung các cơ chế khuyến khích cán bộ khoa học công nghệ sáng tạo, phát triển khoa học công nghệ, đưa các khoản phụ cấp, trợ cấp, thù lao không thường xuyên trong hoạt động phát triển khoa học công nghệ của người lao động như thù lao sáng kiến, phụ cấp nghiên cứu khoa học... thuộc diện thu nhập không chịu thuế.
Nhà nước cũng cần xem xét lại mô hình tổ chức, cơ chế hoạt động và cơ chế tài chính của đơn vị, tập thể, cá nhân hoạt động nghiên cứu khoa học trong doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế Nhà nước nhằm thúc đẩy, động viên khuyến khích các đơn vị, cá nhân bám sát thực tiễn, sáng tạo, chủ động nghiên cứu đề xuất, tạo động lực cho phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh cho các đơn vị trong Tập đoàn.
Giảm thủ tục hành chính, giảm hao phí công sức, thời gian và chi phí của các tập thể, cá nhân người hoạt động khoa học công nghệ vào thủ tục hồ sơ rườm rà không cần thiết từ khâu đặt hàng đến thanh quyết toán nhiệm vụ khoa học công nghệ.
Chính phủ tạo hành lang pháp lý cho phép Tập đoàn chủ động trong việc giao nhiệm vụ cho các đơn vị, bộ phận nghiên cứu trực thuộc theo hình thức phù hợp nhất nhưng vẫn tuân thủ luật chuyên ngành về khoa học công nghệ.
Doanh nghiệp khoa học công nghệ cũng như tổ chức khoa học công nghệ trong doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế Nhà nước có các quy định và điều kiện ưu đãi khác biệt so với các loại hình doanh nghiệp khác trong Luật Doanh nghiệp như:
Trong đầu tư cơ sở vật chất khoa học công nghệ từ nguồn quỹ phát triển khoa học công nghệ của Công ty Mẹ cũng như của các đơn vị thành viên Tập đoàn, trong các quy định về lợi nhuận, thuế, phí, hao mòn/khấu hao, tiền công và thu nhập, bảo hiểm… để giảm gánh nặng cho tổ chức khoa học công nghệ có mức đầu tư lớn, giảm chi phí thực hiện các nhiệm vụ khoa học công nghệ và dịch vụ kỹ thuật đặc thù, thu hút, đào tạo và giữ được nhân công chất lượng cao…
Đến nay, PVN đã có đội ngũ trí thức hùng hậu, được đào tạo bài bản từ các trường đại học trong nước và đặc biệt là từ các trường đại học, các viện nghiên cứu hàng đầu của các nước tiên tiến trên thế giới như: Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc, Canada, Na Uy, Hà Lan... |