Dân số Việt Nam gấp 17 Singapore, 3 Malaysia, 2 lần Thái Lan nhưng...

20/02/2014 13:56
Ngọc Quang (Thực hiện)
(GDVN) - Từ 2006 đến 2010, Việt Nam chỉ có 5 bằng sáng chế được đăng ký tại Mỹ, trung bình mỗi năm có 1 bằng sáng chế; riêng năm 2011, nước ta không có sáng chế nào.

LTS: Tiếp tục cuộc trao đổi với Báo Giáo dục Việt Nam về công cuộc đổi mới nền giáo dục, GS Nguyễn Minh Thuyết - nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội chia sẻ nhiều kinh nghiệm quý báu về chất lượng của đội ngũ nhà giáo và giải pháp tuyển đầu vào có chất lượng cao cho các trường sư phạm.

Thiếu hụt nghiêm trọng lao động có kỹ năng

PV: Giáo dục là quốc sách hàng đầu, có tầm ảnh hưởng rất sâu rộng, vì vậy có những ý kiến cho rằng nên có cách chọn Bộ trưởng thật là công khai, các ứng cử viên trình bày kế hoạch phát triển giáo dục Việt Nam thật cụ thể để có thước đo vì người ta chờ đợi quá lâu rồi mà giáo dục vẫn rối. Giáo sư có đồng ý với quan điểm này?

GS Nguyễn Minh Thuyết: Cách bầu chọn lãnh đạo như vậy ai cũng mong.  Không chỉ là mong với riêng vị trí Bộ trưởng GD-ĐT, mà với tất cả các vị trí khác nữa, nhưng ta chưa thực hiện được. Tôi nhớ từ Quốc hội khóa XI các ĐBQH đã đề nghị ứng cử viên vào các chức vụ cao cấp của Nhà nước cần thuyết trình trước Quốc hội về phương hướng công tác của mình, trả lời câu hỏi của đại biểu để có căn cứ bầu hoặc phê chuẩn. Nhưng trên thực tế cho đến nay vẫn chưa làm được.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói công việc thành bại là do cán bộ. Phải chăng ta chọn cán bộ chưa đúng nên đất nước phát triển chậm hơn nhiều nước khác? Tôi nghĩ là các cơ quan có thẩm quyền phải gấp rút nghiên cứu để có giải pháp cho vấn đề này.

GS Nguyễn Minh Thuyết - nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội. Ảnh: Ngọc Quang
GS Nguyễn Minh Thuyết - nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội. Ảnh: Ngọc Quang
Với riêng ngành GD-ĐT thì về chiến lược đã có Nghị quyết Hội nghị TW8 về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục rồi. Đề án đổi mới là kết quả lao động của nhiều tập thể, cá nhân, nhưng đóng góp của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Phạm Vũ Luận chắc chắn là rất quan trọng.

Vấn đề bây giờ là Bộ GD-ĐT phải tham mưu giúp Chính phủ soạn ra được kế hoạch hành động thật cụ thể để thực hiện Nghị quyết. Lẽ ra khi trình Đề án đổi mới giáo dục ra Trung ương thì đã phải kèm theo bản kế hoạch cụ thể.
PV: Có nhiều chuyên gia giáo dục không đồng tình với việc thay đổi chương trình - SGK phổ thông, trong khi ở bậc ĐH thì chưa có định hướng gì rõ ràng. Quan điểm của Giáo sư thế nào?

GS Nguyễn Minh Thuyết: Từ Cách mạng Tháng Tám đến nay, nước ta đã tiến hành 4 cuộc cải cách giáo dục và đổi mới nội dung, phương pháp dạy học (vào các năm 1950, 1956, 1979 và 2002). Nhưng cả 4 lần chỉ nhằm vào giáo dục phổ thông.

Trong khi đó, theo tôi, đào tạo ĐH và dạy nghề mới cần cải cách mạnh mẽ, vì đó là những nơi chịu trách nhiệm cuối cùng để đưa sản phẩm ra xã hội. Đây là chỗ yếu nhất trong hệ thống giáo dục, cần phải đầu tư giải quyết ngay.

Nói riêng về GDĐH thì cấp học này có hai nhiệm vụ: Thứ nhất là đào tạo nhân lực trình độ cao, thứ hai là nghiên cứu khoa học (NCKH) phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, việc thực hiện cả hai nhiệm vụ này ở các trường ĐH của mình đều yếu. 
Cho đến nay, chất lượng GDĐH mới chỉ được đánh giá thông qua điểm số của sinh viên (SV) trong các kỳ thi. Nhưng khó có thể nói rằng kết quả thi phản ánh chính xác chất lượng đào tạo khi đề thi thường do người dạy ra, bài thi do người dạy chấm, nội dung thi lặp lại những điều thầy đã dạy trên lớp. Tỷ lệ SV tốt nghiệp và tốt nghiệp loại giỏi của các trường thường quá cao.
Trong đào tạo sau ĐH, tình trạng dễ dãi, nể nang, thiếu thẳng thắn và khách quan trong đánh giá luận văn, luận án tốt nghiệp còn diễn ra phổ biến hơn. Tình trạng chạy thầy, chạy điểm, học hộ, thi hộ, sao chép luận văn, luận án ít được phát hiện và khi được phát hiện thì xử lý chưa nghiêm.
Bởi vậy, chỉ có thể đánh giá chất lượng đào tạo qua khả năng hòa nhập của nhân lực được đào tạo vào thị trường lao động. Đáng tiếc là cho đến nay vẫn chưa có những khảo sát quy mô về vấn đề này.

Nhưng kết quả nghiên cứu bước đầu và thực tế diễn ra ở một số đơn vị sử dụng lao động cũng có thể giúp chúng ta đánh giá phần nào chất lượng chung của nhân lực được đào tạo.
Theo thống kê của Bộ GDĐT, trong số khoảng 200.000 SV tốt nghiệp ĐH, CĐ hàng năm chỉ 50% kiếm được việc làm và trong số này cũng chỉ có 30% làm đúng ngành nghề được đào tạo.

Theo TS Phạm Thị Ly ở ĐHQG TP Hồ Chí Minh, một nghiên cứu của bà Maureen Chao thuộc Trường ĐH Seattle (Mỹ) về lao động bậc cao của Việt Nam cho thấy ngay cả số người được tuyển dụng đúng ngành nghề cũng phải được đào tạo lại về các kỹ năng mềm.

Còn Báo cáo năng lực cạnh tranh của Việt Nam 2009 - 2010 do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) phối hợp với Học viện Năng lực cạnh tranh châu Á của Singapore (ACI) thực hiện thì nhận xét: “Hệ thống GD được mở rộng nhưng không đáp ứng được yêu cầu về mặt chất lượng, không gắn với thị trường, dẫn tới thiếu hụt nghiêm trọng lao động có kỹ năng”.
PV: Không chỉ hạn chế về chất lượng đào tạo mà năng lực sáng tạo của các cơ sở GDĐH nước ta cũng yếu, thưa Giáo sư?
GS Nguyễn Minh Thuyết: Nhìn chung số lượng sáng chế, phát minh có giá trị, số lượng công bố quốc tế còn rất ít. Theo thống kê của Bộ Khoa học và Công nghệ, trong 5 năm (2006 – 2010), cả nước chỉ có khoảng 200 bằng sáng chế, giải pháp hữu ích được cấp tại Cục Sở hữu trí tuệ.

Còn theo các tác giả Lê Văn Út và Thái Lâm Toàn thì từ năm 2006 đến 2010, Việt Nam chỉ có 5 bằng sáng chế được đăng ký tại Mỹ, trung bình mỗi năm có 1 bằng sáng chế; riêng năm 2011, nước ta không có bằng sáng chế nào được đăng ký tại đây.
Trong khi đó, Nhật Bản (với dân số 126,9 triệu người) là nước đứng đầu với 46.139 bằng sáng chế, kế đến là Hàn Quốc (48,9 triệu dân) với 12.262 bằng sáng chế. Trong khu vực Đông Nam Á, Singapore (4,8 triệu dân) có 647 bằng sáng chế.

Đứng thứ hai là Malaysia (27,9 triệu dân) với 161 bằng sáng chế. Thái Lan (68,1 triệu dân) có 53 sáng chế. Còn một nước có số dân và trình độ phát triển tương đương nước ta là Philippines thì có 27 sáng chế.
Về công bố quốc tế, theo thống kê của Viện Thông tin khoa học (ISI), trong 15 năm qua (1996 - 2011), Việt Nam mới có 13.172 ấn phẩm khoa học công bố trên các tập san quốc tế có bình duyệt, bằng khoảng một phần năm của Thái Lan (69.637), một phần sáu của Malaysia (75.530), và một phần mười của Singapore (126.881); trong khi đó, dân số Việt Nam gấp 17 lần Singapore, ba lần Malaysia và gần gấp rưỡi Thái Lan.
Ở nước nào cũng vậy, ĐH là nơi đào tạo các nhà khoa học và là nơi đóng góp phần lớn phát minh, sáng chế. Số lượng phát minh, sáng chế ít ỏi được đăng ký của Việt Nam nói lên sự hạn chế về năng lực sáng tạo của các cơ sở GDĐH nước ta và của nhân lực mà hệ thống ấy đào tạo ra.

Bây giờ tất cả chỉ loay hoay vào giáo dục phổ thông là chưa đúng hướng. Vấn đề của giáo dục phổ thông hiện nay là làm sao chống được tiêu cực và chống được quá tải, chứ chất lượng không kém đâu. Kết quả kiểm tra theo chương trình quốc tế PISA vừa qua đã phần nào nói lên điều này.

Chất lượng đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ cũng đang là bài toán khó với Bộ GD & ĐT. Ảnh minh họa, nguồn internet.
Chất lượng đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ cũng đang là bài toán khó với Bộ GD & ĐT. Ảnh minh họa, nguồn internet.

Nhà nước cần quy hoạch lại các trường đào tạo bằng ngân sách

PV: Có ý kiến cho rằng, nhà nước cần phải tổ chức lại hệ thống đào tạo trường công lập, chỉ tập trung vào những ngành phục vụ cho hệ thống chính trị, hành chính quốc gia và ngành đặc thù… còn lại phải xã hội hóa hết. Giáo sư nhận định sao về điểm này?
GS Nguyễn Minh Thuyết: Hiện nước ta có khoảng 450 trường ĐH, CĐ với khoảng 1,8 triệu SV, trong đó trên 80% là các trường ĐH, CĐ công lập và trên 87% là sinh viên các trường ĐH, CĐ công lập.

Tuy ngân sách nhà nước dành tới 20% cho GD-ĐT, nhưng GDĐH chỉ được 10% của số 20% đó, tức là khoảng 500 triệu USD/năm. Nếu số tiền này tập trung cho một số lượng vừa phải thì chất lượng sẽ cao, nhưng tãi ra cho nhiều trường, cho nhiều người thì chắc chắn chất lượng phải giảm.
Bởi vậy, việc sắp xếp lại hệ thống trường công lập cho hợp lý là việc phải làm. Tuy nhiên, “cắt” ngay bầu sữa bao cấp không phải chuyện dễ dàng. Một số trường công lập cũng đã mạnh dạn thực hiện mô hình tự chủ về tài chính để giảm dần đầu tư từ ngân sách nhà nước nhưng lại bị vướng víu về cơ chế, rất khó làm.

Xã hội hóa là một giải pháp hay nhưng cũng có những giới hạn của nó. Trên thực tế, nhiều nhà đầu tư chỉ muốn mở những ngành chi phí thấp mà nhu cầu thị trường nhiều, thu lợi nhanh như quản trị kinh doanh, công nghệ thông tin, tiếng Anh, kế toán…

Không mấy ai muốn mở những ngành ít hấp dẫn thị trường lao động như khoa học cơ bản hoặc đòi hỏi đầu tư trang thiết bị đắt tiền như các ngành kỹ thuật. Cũng không ai chịu đầu tư về nông thôn, miền núi, vùng sâu vùng xa. Vì vậy, nhiệm vụ của Nhà nước là phải đầu tư cho những ngành, những địa bàn mà dịch vụ giáo dục tư nhân không đáp ứng được này.

"Nhà nước đảm bảo công việc, ngành sư phạm sẽ có nhiều người tài"

PV: Nhiều chuyên gia đã khẳng định người thầy là nhân tố quyết định chất lượng GD-ĐT. Vậy, theo Giáo sư, cần làm gì để các trường sư phạm – nơi đào tạo các thầy cô – tuyển được đầu vào có chất lượng cao?
GS Nguyễn Minh Thuyết: Có một thời kỳ chính sách miễn học phí cho sinh viên sư phạm đã thu hút rất nhiều SV giỏi vào trường. Nhưng bây giờ thì miễn học phí không còn hấp dẫn nữa, bởi vì ra trường mất mấy chục triệu hoặc mấy trăm triệu đồng mới lo được một chân dạy học thì số học phí được miễn chẳng ăn nhằm gì.
Tôi tin rằng, cùng với việc nâng cao đời sống của giáo viên, nếu Nhà nước đảm bảo phân công công tác khi SV sư phạm tốt nghiệp thì nhiều người giỏi sẽ vào, chẳng cần phải miễn học phí.

Muốn vậy thì đào tạo phải có kế hoạch, không để cử nhân sư phạm dôi dư quá nhiều. Tổng nhân lực cần cho ngành sư phạm đâu có khó tính toán, khi chúng ta đã biết số trẻ sinh thêm mỗi năm, số trường đã có và cần mở thêm, số học sinh hiện có ở mỗi cấp, mỗi trường, số giáo viên hiện có và sẽ về hưu, cần được thay thế…
Bên cạnh đó, khi phân công công tác phải đảm bảo công bằng, tức là có chính sách luân chuyển giáo viên, nếu không thì không tránh được chuyện chạy chọt để được ở lại thành phố, chẳng ai muốn về nông thôn hoặc vùng sâu vùng xa. 
Theo tôi, cách tốt nhất là sắp xếp cho giáo viên mới ra trường làm việc ở những địa phương thuận lợi bên cạnh những giáo viên giỏi, sau một thời gian nhất định, khi đã tích lũy được kinh nghiệm, họ có nghĩa vụ đi miền núi hoặc nông thôn phục vụ 5 năm, sau đó mới quay về nơi công tác cũ.

Còn nếu làm như hiện nay, SV mới ra trường phải đi xa, rồi sau một thời gian tích lũy được kinh nghiệm lại chuyển vùng để một lớp mới toanh về thay thì học sinh miền núi và nông thôn luôn luôn phải học giáo viên mới, còn ít kinh nghiệm.
Trân trọng cảm ơn Giáo sư!
Ngọc Quang (Thực hiện)