Tiếp theo phần 1.
Nguyên tắc “Chủ quyền lịch sử”
Trong khi đó, để thực hiện chiến lược độc chiếm Biển Đông, dùng Biển Đông làm bàn đạp để vươn lên tranh giành vị trí siêu cường quốc tế trong cuộc cạnh tranh địa - chính trị, địa - kinh tế, địa - chiến lược với Hoa Kỳ, Trung Quốc đã dùng vũ lực để xâm chiếm và tạo ra tình trạng tranh chấp chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa vào những năm 1909, 1956, 1974 và một số thực thể ở quần đảo Trường Sa năm 1946, 1950 (Trung Hoa Dân Quốc) và năm 1988 (Cộng hòa nhân dân Trung Hoa).
Để biện minh cho sự xâm chiếm bằng vũ lực đó, phía Trung Quốc lập luận rằng Trung Quốc có “chủ quyền lịch sử” đối với quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa (tức Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam).
Họ khẳng định rằng, tổ tiên người Trung Hoa từ hàng ngàn năm nay trong lịch sử đã phát hiện, khai phá, chiếm hữu, thực thi chủ quyền đối với 2 quần đảo này.
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis. Ảnh: Reuters |
Ngày 27/6/2018, trước những chỉ trích của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis, trong chuyến thăm Trung Quốc vừa diễn ra tại Bắc Kinh, về vấn đề Trung Quốc quân sự hóa Biển Đông, leo thang căng thẳng và gây lo ngại trong khu vực, Chủ tịch Tập Cận Bình khẳng định:
“Lãnh thổ mà tổ tiên (Trung Quốc) để lại một tấc cũng không được đánh mất. Thứ gì của người khác thì một phân chúng tôi cũng không cần".
Tuyên bố của Chủ tịch Tập Cận Bình chính là lập trường “Chủ quyền lịch sử” mà chúng ta đã nhiều lần được nghe.
Dựa vào lập trường này, Trung Quốc đã và đang tìm mọi cách, viện dẫn nhiều sách, tài liệu địa lý, lịch sử để chứng minh và bảo vệ cho quan điểm pháp lý về quá trình xác lập và thực thi cái gọi là “chủ quyền lịch sử” của Trung Quốc đối với “Tây Sa” và “Nam Sa”.
Nhưng, theo quan điểm của ông Lý Lệnh Hoa, một chuyên gia nổi tiếng về Công pháp quốc tế, người Trung Quốc thì “…chứng cứ (lịch sử) đó có ý nghĩa ngày càng nhỏ trong luật quốc tế hiện đại…chứng cứ thật sự có sức thuyết phục chính là sự kiểm soát thực sự.
Anh nói chỗ đó của anh, vậy anh đã từng quản lý nó chưa, người ở đó có phục tùng sự quản lý của anh không, có phải người khác không có ý kiến gì không?
Nếu đáp án của những câu hỏi này đều là “có” thì anh thắng là điều chắc. Ở Nam Sa, chúng ta không có được điều đó…”.
Bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu kết luận:
Trọng tài quốc tế trong vụ kiện Biển Đông và bài học cho Việt Nam |
“…người Trung Quốc cách đây khá lâu đã biết ở Biển Đông có nhiều đảo mọc rải rác, nhưng điều đó không đủ làm cơ sở pháp lý để bảo vệ cho lập luận rằng, Trung Quốc là nước đầu tiên phát hiện, khám phá, khai thác và quản lý hai quần đảo này…".
Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng nguyên tắc “chủ quyền lịch sử” là vô giá trị, nếu không muốn nói đó là quan điểm rất nguy hại, gây bất ổn cho sự tồn tại hiện thời, hợp pháp của các quốc gia trên thế giới.
Bởi vì, nếu chỉ căn cứ vào lịch sử thì nhiều quốc gia sẽ không còn tồn tại như hiện nay, kể cả nước Trung Hoa vĩ đại…
Có thể nói đó chỉ là biến tướng của tư tưởng dân tộc cực đoan, bất chấp Luật pháp và Thực tiễn quốc tế để thực hiện tham vọng bành trướng bá quyền, nước lớn.
Một số lưu ý
Bất chấp sự thật nói trên, để biện minh cho những hành động từng bước dùng vũ lực xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa vào các thời điểm năm 1909 (Tổng đốc Lưỡng Quảng), năm 1956, 1974 (Cộng hòa nhân dân Trung Hoa) và một phần quần đảo Trường Sa năm 1946, (Trung Hoa Dân Quốc), 1988 (Cộng hòa nhân dân Trung Hoa), phía Trung Quốc đã và đang sử dụng nhiều thủ đoạn về chính trị, pháp lý, truyền thông, các diễn đàn khoa học, các dự án kinh tế… để “giành lấy sự công nhận trên thực tế” (sự mặc nhiên thừa nhận) từ phía Việt Nam, cũng như các bên liên quan khác, lập trường “chủ quyền lịch sử” mơ hồ và sai trái của họ.
Xuất phát từ những bài học được rút ra từ thực tế đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo này, cả trên mặt trận an ninh quốc phòng, lẫn trên mặt trận ngoại giao, pháp lý, truyền thông, chúng tôi xin lưu ý cần thận trọng khi sử dụng các tài liệu lịch sử, bản đồ có liên quan đến 2 quần đảo, bởi vì:
- Không phải bất cứ tư liệu lịch sử và bản đồ nào cũng đều có giá trị pháp lý để chứng minh và khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo này.
Chỉ có những tư liệu lịch sử và bản đồ có giá trị pháp lý (nghĩa là các tư liệu do hệ thống tổ chức nhà nước có thẩm quyền ban hành) mới được coi là những chứng cứ pháp lý.
- Các tư liệu lịch sử, bản đồ, không do nhà nước xuất bản chỉ có giá trị cho các chuyên gia pháp lý dựa vào đó để sưu tìm, tập hợp các chứng cứ pháp lý phục vụ cho giải pháp giải quyết các bất đồng bằng biện pháp hòa bình - đàm phán ngoại giao, sử dụng cơ chế tài phán quốc tế.
- Nếu sử dụng không có chọn lọc, nhất là dùng cho đấu tranh pháp lý, tất cả tài liệu lịch sử, bản đồ…có thể vô tình ủng hộ cho lập trường “chủ quyền lịch sử” của Trung Quốc như đã phân nói trên.
Cần cân nhắc sử dụng thuật ngữ “tranh chấp” khi diễn tả thực trạng xác lập, bảo vệ, quản lý các quyền của các bên trong Biển Đông.
Vấn đề Biển Đông sẽ được giải quyết thế nào? |
Theo Luật pháp và Thực tiễn quốc tế, tình trạng tranh chấp chủ quyền lãnh thổ không tồn tại ở bất kỳ thời điểm nào và ở bất kỳ phạm vi nào trong Biển Đông, trong đó có 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Bởi lẽ:
- Từ trước đến nay, Việt Nam luôn luôn khẳng định rằng quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.
Nhà nước Việt Nam đã chiếm hữu 2 quân đảo này, từ khi chúng còn là đất vô chủ, chí ít là từ thế kỷ VII, khi Nhà nước Việt Nam chiếm hữu và thực thi chủ quyền ở 2 quần đảo này, không gặp phải sự phản đối của bất kỳ quốc gia nào; cho mãi đến năm 1909, phía Trung Quốc (Tổng đốc Lưỡng Quảng - chính quyền địa phương Trung Quốc) mới cử mấy pháo hạm đưa quân đổ bộ lên một vài đảo ở Hoàng Sa, rồi vội vã rút lui).
Kể từ thời điểm này (“thời điểm kết tinh tranh chấp”?) mà nhiều học giả, chuyên gia pháp lý cho rằng, kể từ sau thời điểm này, các hành vi do các nước thực hiện không làm thay đổi các quyền tương ứng của các nước đó.
Vì vậy, cho dù sau khi đã dùng vũ lực để xâm chiếm hoàn toàn quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974, Trung Quốc luôn luôn khẳng định “Tây Sa là của Trung Quốc, không có tranh chấp, không đàm phán với ai cả”, thì Trung Quốc cũng không thể làm thay đổi được danh nghĩa chủ quyền của Việt Nam dưới ánh sáng của Luật pháp và Thực tiễn quốc tế.
Còn đối với quần đảo Trường Sa, “thời điểm tranh chấp” chủ quyền của Việt Nam có thể tính bắt đầu từ năm 1946, khi Trung Hoa dân quốc lợi dụng việc đồng minh trong thế chiếm thế giới lần thứ 2 giao nhiệm vụ ra quần đảo Trường Sa để giải giới quân đội Nhật, đã chiếm đóng đảo Ba Bình tạo nên thực trạng “tranh chấp” từ đó.
Philippines và Malaysia cũng đưa quân ra chiếm đóng một số đảo và tạo ra tình trạng tranh chấp ở đây vào thập kỷ 70 thế kỷ trước.
Như vậy, việc sử dụng thuật ngữ “tranh chấp” một cách chung chung, không phân biệt thời điểm và phạm vi tranh chấp đồng nghĩa với việc chúng ta đã chấp nhận chủ trương biến không thành có, biến vùng không tranh chấp thành vùng tranh chấp của Trung Quốc.
Hậu quả sẽ làm yếu đi lập trường pháp lý mà chúng ta đang vận dụng để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo này, chí ít là vào thời điểm trước khi các bên có thỏa thuận ngồi vào đàm phán hay sử dụng cơ chế tài phán quốc tế để giải quyết vấn đề chủ quyền đối với 2 quần đảo này.
Cần cảnh giác không để Trung Quốc thực hiện chủ trương giành lấy sự công nhận trên thực tế “chủ quyền lịch sử” của Trung Quốc.
- Trước bất kỳ động thái bài binh bố trận nào của Trung Quốc, tại thực địa và ở trên tất cả các lĩnh vực pháp lý, chính trị, kinh tế, xã hội, khoa học, kỹ thuật…có liên quan đến Biển Đông, chúng ta nhất là những cá nhân, tổ chức nhà nước phải đề cao cảnh giác, phát hiện và vô hiệu hóa những “bẫy” pháp lý do họ giăng ra, bằng cách lên tiếng phản đối kịp thời và nếu cần, có thể phải tuyên bố bảo lưu, để không bị rơi vào tình thể mặc nhiên thừa nhận yêu sách “chủ quyền lịch sử” của họ.