Một trong những nhiệm vụ, giải pháp được Bộ Chính trị đặt ra trong Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là: Có cơ chế, chính sách hấp dẫn về tín dụng, học bổng và học phí để thu hút học sinh, sinh viên giỏi theo học các lĩnh vực toán học, vật lý, sinh học, hoá học, kỹ thuật và công nghệ then chốt, nhất là ở các trình độ sau đại học. Xây dựng và triển khai các chương trình đào tạo tài năng trên các lĩnh vực.

Trên thực tế, việc thu hút người học vào các ngành khoa học, kỹ thuật công nghệ hiện đang gặp nhiều khó khăn.

Khó thu hút người học, chế độ học bổng còn hạn chế

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Quách Thanh Hải - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh nhận định: “Nguồn nhân lực STEM trình độ cao là yếu tố then chốt, tạo lợi thế cạnh tranh quốc gia trong thu hút đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ cao. Tuy nhiên, tỷ lệ sinh viên theo học các lĩnh vực toán học, vật lý, sinh học, hoá học, kỹ thuật và công nghệ then chốt tại Việt Nam hiện vẫn thấp so với mặt bằng chung của các nước phát triển.

Dù số lượng sinh viên ngành STEM có xu hướng tăng trong những năm gần đây, song nhóm này chỉ chiếm khoảng 27–29% tổng số sinh viên bậc đại học. Tỷ lệ này cho thấy khoảng trống lớn trong đào tạo nguồn nhân lực ngành này, đặt ra yêu cầu cấp thiết về chính sách thu hút người học hiệu quả hơn, nhất là trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 và tiến trình chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ”.

thay-quach-thanh-hai.jpg
Tiến sĩ Quách Thanh Hải - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: Website trường

Theo thầy Hải, có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng các ngành STEM chưa thu hút được nhiều thí sinh giỏi. Cụ thể:

Thứ nhất, về nhận thức và định hướng nghề nghiệp, nhiều học sinh, phụ huynh thường ưu tiên lựa chọn các ngành kinh tế, tài chính hoặc quản trị kinh doanh, với kỳ vọng có cơ hội việc làm cũng như thu nhập cao sau tốt nghiệp.

Thứ hai, chất lượng đào tạo và cơ sở vật chất cho giáo dục STEM còn nhiều hạn chế. Mặc dù, đã có những bước tiến, nhưng Việt Nam vẫn chưa theo kịp các nước tiên tiến về hệ thống phòng thí nghiệm, trang thiết bị thực hành và chương trình đào tạo.

Thứ ba, cơ hội việc làm và mức thu nhập trong nhiều lĩnh vực khoa học công nghệ chưa thực sự hấp dẫn, khiến thí sinh giỏi có xu hướng chuyển sang các ngành nghề khác được cho là dễ phát triển sự nghiệp hơn.

Thứ tư, giáo dục STEM ở bậc phổ thông chưa được chú trọng đúng mức. Việc thiếu nền tảng, định hướng sớm và trải nghiệm thực tế trong các môn học liên quan khiến học sinh chưa hình thành được sự yêu thích hay cam kết lâu dài với lĩnh vực này.

Để khắc phục, cần có chính sách tổng thể và đồng bộ từ tăng cường đầu tư vào cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng giảng dạy, đến mở rộng cơ hội việc làm và chế độ đãi ngộ cho sinh viên tốt nghiệp ngành STEM. Bên cạnh đó, giáo dục STEM cần được triển khai hiệu quả hơn từ bậc phổ thông, nhằm tạo nền tảng và truyền cảm hứng sớm cho thế hệ trẻ.

Cùng chia sẻ về vấn đề này, Giáo sư, Tiến sĩ Mai Thanh Phong - Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đánh giá, hiện nay, chính sách vay tín dụng học phí cho sinh viên còn nhiều bất cập và vướng mắc. Nhiều ngân hàng thương mại yêu cầu bảo lãnh, tài sản thế chấp, trong khi phần lớn sinh viên không đủ điều kiện đáp ứng.

Ngoài ra, việc vay vốn với lãi suất hiện tại cũng trở thành gánh nặng cho sinh viên đến từ gia đình có thu nhập trung bình và thấp. Đặc biệt trong giai đoạn đầu đi làm, mức thu nhập còn hạn chế, các em đã phải gánh một khoản nợ sẽ tạo thêm áp lực về tài chính.

Mặt khác, số lượng học bổng do doanh nghiệp, tổ chức tài trợ ở các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật then chốt, công nghệ chiến lược còn hạn chế, học bổng từ nhà nước cũng chưa đáp ứng đủ nhu cầu. Vì vậy, việc đẩy mạnh xã hội hóa trong việc hỗ trợ người học là rất cần thiết.

Tuy nhiên, sự đóng góp từ xã hội chỉ mang tính hỗ trợ và phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội từng giai đoạn. Do đó, nhà nước cần có những chính sách mang tính chiến lược, nhằm thu hút, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực khoa học công nghệ để đáp ứng yêu cầu phát triển trong tương lai.

z6183635552180-b62d492f80dd6595322c07e1625d6a1c-7408-5250.jpg
Giáo sư, Tiến sĩ Mai Thanh Phong - Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: NVCC

Lý giải về nguyên nhân số lượng học bổng do doanh nghiệp và tổ chức tài trợ cho sinh viên ngành công nghệ, kỹ thuật còn hạn chế, theo Tiến sĩ Nguyễn Trung Nhân - Trưởng phòng, Phòng Đào tạo Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh, có 2 nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này.

Một là, mối liên kết giữa “3 nhà” (nhà nước - nhà trường - doanh nghiệp) chưa thực sự bền chặt. Nhiều doanh nghiệp chưa nhìn thấy rõ lợi ích trực tiếp từ việc đầu tư học bổng, do thiếu các cơ chế phối hợp trong đào tạo, tuyển dụng và phát triển nhân lực theo nhu cầu thực tế.

Hai là, chính sách khuyến khích doanh nghiệp tham gia tài trợ học bổng vẫn còn yếu. Ưu đãi về thuế hoặc ghi nhận xã hội đối với hoạt động tài trợ chưa đủ mạnh, dẫn đến việc thiếu động lực để khu vực tư nhân đầu tư cho giáo dục STEM.

Cần xây dựng chế độ học bổng, các khoản vay tín dụng lãi suất thấp hoặc không lãi suất

Vừa qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã giới thiệu Dự thảo Nghị định quy định chính sách học bổng dành cho người học các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật then chốt và công nghệ chiến lược.

Theo đó, sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh theo học các ngành thuộc nhóm này sẽ được cấp học bổng căn cứ vào kết quả học tập, với mức hỗ trợ học phí từ 50% đến 100%. Ngoài ra, người học còn được hỗ trợ sinh hoạt phí 3,63 triệu đồng mỗi tháng trong suốt thời gian học tại cơ sở đào tạo.

Đây chính là tín hiệu đáng mừng để thu hút người học vào các ngành STEM, khoa học cơ bản, kỹ thuật then chốt. Tuy nhiên, Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, nhà nước cần xây dựng hệ thống chính sách hỗ trợ linh hoạt, phù hợp với từng nhóm đối tượng và ngành học. Mức độ hỗ trợ nên được điều chỉnh dựa trên mức độ cần thu hút người học và tính cấp thiết của từng lĩnh vực.

Nhà nước cần cung cấp các khoản vay tín dụng học phí với lãi suất thấp hoặc không lãi suất. Trong đó cần quan tâm đến sinh viên ngành STEM - nhóm ngành đang cần thu hút người học mạnh mẽ.

Bên cạnh đó, với sinh viên có nỗ lực và đạt kết quả học tập tốt, hoàn toàn có thể xem xét chuyển khoản vay thành học bổng hoặc miễn giảm một phần. Sau khi tốt nghiệp, người học sẽ hoàn trả phần tiền đã được hỗ trợ. Việc này thể hiện cam kết và trách nhiệm của họ với nhà trường, nhà nước.

Bên cạnh thu hút người học, việc đầu tư, nâng cao chất lượng đào tạo cũng cần được quan tâm. Trước hết, nhà nước cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, đặc biệt là hệ thống phòng thí nghiệm, trang thiết bị thực hành và nghiên cứu. Đây là những hạng mục đòi hỏi chi phí lớn và khấu hao nhanh, do đó cần có sự đầu tư đồng bộ và thường xuyên để đáp ứng yêu cầu đào tạo hiện đại.

Đồng thời, cần có thêm chính sách hỗ trợ nâng cao thu nhập và năng lực chuyên môn cho giảng viên các ngành này, nhằm thu hút và giữ chân nhân lực chất lượng cao. Cùng với đó, cần thường xuyên tổ chức các chương trình bồi dưỡng chuyên môn sâu, chẳng hạn có thể cử giảng viên tham gia những khóa đào tạo nâng cao tại quốc gia có thế mạnh về phát triển khoa học công nghệ, giúp họ cập nhật kiến thức, phương pháp giảng dạy tiên tiến.

Ngoài ra, chính sách hỗ trợ học viên sau đại học vẫn còn nhiều hạn chế. Đây là lực lượng nòng cốt trong hoạt động nghiên cứu khoa học góp phần thúc đẩy phát triển khoa học - công nghệ, công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.

Theo thầy Phong: “Tại các trường đại học và viện nghiên cứu, lực lượng chính tham gia nghiên cứu trong phòng thí nghiệm và triển khai thực tế là người học sau đại học, gồm học viên cao học và nghiên cứu sinh dưới sự hướng dẫn của các giảng viên.

Học viên cao học thường học vào buổi tối hoặc cuối tuần, nghiên cứu sinh chủ yếu vừa đi học vừa đi làm khiến việc nghiên cứu không được đầu tư đúng mức về thời gian và chiều sâu. Điều này không chỉ làm giảm hiệu quả đào tạo mà còn khó thu hút những cá nhân thực sự có đam mê và năng lực nghiên cứu.

Mặt khác, hiện nay phần lớn học viên sau đại học đều phải tự chi trả học phí, gần như không được hưởng học bổng nên nhiều trường hợp, người học chỉ theo đuổi tấm bằng, thay vì hướng tới nghiên cứu chuyên sâu và đóng góp cho khoa học.

Trong khi đó, nhiều quốc gia trong khu vực như Hàn Quốc, Trung Quốc đang tích cực thu hút sinh viên quốc tế, trong đó có sinh viên Việt Nam bằng chính sách học bổng. Thực tế này dẫn đến việc nhiều dự án khoa học trong nước gặp khó khăn trong việc thu hút nhân lực, đặc biệt là đội ngũ nghiên cứu trẻ.

Do đó, việc thiết lập cơ chế học bổng cho học viên sau đại học và nghiên cứu sinh toàn thời gian là hết sức cần thiết, nhất là ngành thuộc nhóm khoa học kỹ thuật và khoa học cơ bản, những lĩnh vực then chốt cho sự phát triển dài hạn của đất nước.

kfkwpyd9phni-jrs6zgrs6pp.jpg
Giảng viên Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh hướng dẫn nghiên cứu sinh thực hiện các nghiên cứu tại phòng thí nghiệm. Ảnh: website nhà trường

Cùng chia sẻ về vấn đề này, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong các ngành khoa học - công nghệ, việc mở rộng nguồn tài trợ học bổng cho sinh viên khối ngành STEM là nhiệm vụ cấp thiết.

Bên cạnh đó, cần thiết lập cơ chế hợp tác chặt chẽ giữa nhà trường, doanh nghiệp và nhà nước nhằm xây dựng các chương trình học bổng gắn liền với nhu cầu tuyển dụng thực tế. Sự phối hợp này không chỉ giúp doanh nghiệp tiếp cận nguồn nhân lực phù hợp mà còn tạo điều kiện để sinh viên phát triển theo hướng ứng dụng.

Ngoài ra, việc tăng cường truyền thông về vai trò của STEM trong phát triển kinh tế - xã hội sẽ góp phần nâng cao nhận thức và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Khi thấy rõ tầm quan trọng của việc đầu tư vào giáo dục, các đơn vị tư nhân sẽ có thêm động lực tham gia hỗ trợ học bổng cho người học.

Chính sách khuyến khích từ phía nhà nước cũng đóng vai trò quan trọng. Cần có các ưu đãi cụ thể như miễn, giảm thuế cho doanh nghiệp tài trợ học bổng, vinh danh trên các kênh truyền thông chính thống, hoặc tạo điều kiện để họ tham gia vào quá trình đào tạo và đánh giá đầu ra của sinh viên.

Một giải pháp dài hạn là thành lập Quỹ học bổng STEM quốc gia với sự đóng góp từ cả khu vực công và tư. Quỹ này cần được vận hành minh bạch, chuyên nghiệp, nhằm đảm bảo tính bền vững và khả năng tiếp cận công bằng cho người học.

Đồng thời, cần khuyến khích các tổ chức nghiên cứu, trường đại học nước ngoài tham gia vào các chương trình học bổng trao đổi, hỗ trợ nghiên cứu chung hoặc tài trợ học thuật sẽ góp phần tăng thêm cơ hội phát triển cho sinh viên và giảng viên Việt Nam trong lĩnh vực STEM.

Bên cạnh chính sách học bổng, Tiến sĩ Quách Thanh Hải cho rằng cần có cơ chế miễn giảm học phí cho sinh viên giỏi theo học các lĩnh vực toán học, vật lý, sinh học, hoá học, kỹ thuật và công nghệ then chốt.

Tuy nhiên, để chính sách này phát huy hiệu quả, cần đi kèm với tiêu chí tuyển sinh rõ ràng và nghiêm ngặt. Nếu không có quy định sàng lọc đầu vào phù hợp, việc miễn học phí có thể dẫn đến tuyển sinh tràn lan, gây quá tải cho hệ thống đào tạo, làm giảm chất lượng đầu ra và hiệu quả sử dụng nguồn lực công.

Ngược lại, nếu kết hợp chính sách miễn học phí với các tiêu chí đầu vào khắt khe hơn như điểm thi cao, thành tích học tập nổi bật, hoặc thể hiện năng lực tư duy logic sẽ mang lại nhiều lợi ích. Cụ thể, điều này giúp thu hút đúng đối tượng có năng lực và đam mê thực sự với STEM; tối ưu hóa nguồn lực đầu tư của nhà nước; tạo động lực cạnh tranh lành mạnh giữa các thí sinh; nâng cao chất lượng và uy tín của các chương trình đào tạo STEM.

Bên cạnh việc nâng cao tiêu chuẩn đầu vào để đảm bảo chất lượng đào tạo, cũng cần lưu ý việc tuyển chọn không nên chỉ dựa vào điểm số. Thay vào đó, cần kết hợp các hình thức đánh giá năng lực toàn diện như phỏng vấn, bài kiểm tra tư duy hoặc xét hồ sơ học tập, đặc biệt đối với bậc sau đại học. Cách tiếp cận này sẽ giúp sàng lọc được những người thực sự có năng lực, đam mê và phù hợp với định hướng học thuật.

Chính sách miễn học phí cũng nên được áp dụng theo hình thức "có điều kiện", tức là sinh viên cần duy trì kết quả học tập tốt, tích cực tham gia nghiên cứu khoa học hoặc các hoạt động học thuật mới tiếp tục được hưởng ưu đãi. Điều này không chỉ tạo động lực học tập, mà còn góp phần nâng cao chất lượng đầu ra và sử dụng hiệu quả nguồn lực đầu tư công.

Trong khi đó, Tiến sĩ Nguyễn Trung Nhân bày tỏ, việc giảm học phí, nhất là hỗ trợ sinh hoạt phí để thu hút sinh viên theo học các ngành STEM nếu được triển khai tương tự như chính sách đã áp dụng với sinh viên ngành sư phạm sẽ rất hợp lý.

snapedit-1733285289568-7568-5218-1861.png
Tiến sĩ Nguyễn Trung Nhân - Trưởng phòng Đào tạo, Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh

Chia sẻ thêm về công tác thu hút sinh viên theo học lĩnh vực khoa học cơ bản tại trường, Trưởng phòng, Phòng Đào tạo Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh cho hay: “Những năm gần đây, dù chi phí đào tạo ở các ngành kỹ thuật công nghệ rất cao, song nhà trường vẫn giữ mức học phí tương đương với các lĩnh vực khác để tạo điều kiện thu hút người học. Đây được xem là một trong những hình thức hỗ trợ tài chính gián tiếp cho sinh viên.

Bên cạnh đó, với những ngành học có ít sinh viên nữ theo học, nhà trường đã xây dựng chính sách học bổng riêng dành cho nữ sinh, nhằm khuyến khích sự tham gia của giới nữ trong các lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ.

Ngoài ra, chính sách học bổng, hỗ trợ học tập của nhà trường cũng được ưu tiên phân bổ cho sinh viên thuộc khối ngành STEM, giúp các em yên tâm theo đuổi chuyên môn”.

Thầy Nhân bày tỏ, Nghị quyết 57 mở ra kỳ vọng lớn trong việc thu hút học sinh giỏi trong lĩnh vực toán học, vật lý, sinh học, hoá học, kỹ thuật và công nghệ then chốt.

Hiện nhà trường đang thành lập các ban chuyên trách để triển khai Nghị quyết 57 cụ thể, hiệu quả. Một trong những chính sách đang được nhà trường xem xét là giảm học phí đối với các chương trình đào tạo kỹ sư tài năng, nhằm tạo điều kiện tốt hơn cho sinh viên có năng lực vượt trội, đồng thời triển khai có hiệu quả chương trình đào tạo tài năng trên các lĩnh vực.

Hồng Mai