Chuyên gia chia GV giảng dạy lĩnh vực công nghệ then chốt, bán dẫn thành 3 nhóm

20/06/2025 13:59
Hồng Linh
Theo dõi trên Google News

GDVN - Phát triển đội ngũ giảng viên đủ năng lực giảng dạy lĩnh vực công nghệ chip bán dẫn, vi mạch là yêu cầu mang tính chiến lược khi Việt Nam nỗ lực bứt phá về KHCN.

Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Trong đó có nội dung: Phát triển đội ngũ giảng viên, các nhà khoa học đủ năng lực, trình độ đáp ứng việc giảng dạy lĩnh vực khoa học cơ bản, công nghệ chip bán dẫn, vi mạch, kỹ thuật và công nghệ then chốt.

Các chuyên gia trong lĩnh vực công nghệ chip bán dẫn, vi mạch đánh giá đây yêu cầu mang tính chiến lược, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang nỗ lực bứt phá về khoa học – công nghệ.

Nguồn nhân lực hiện tại vẫn còn mỏng

Bàn luận về vấn đề này, trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Chí - Trưởng khoa Khoa Điện tử, Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp (Đại học Thái Nguyên) - đơn vị hiện đang đào tạo ngành Công nghệ điện tử, bán dẫn và vi mạch cho biết, việc phát triển đội ngũ giảng viên và nhà khoa học đủ năng lực để giảng dạy các lĩnh vực khoa học cơ bản, công nghệ chip bán dẫn, vi mạch và các công nghệ then chốt đang đối mặt với một số khó khăn cơ bản.

Trong đó có sự thiếu hụt đội ngũ có chuyên môn sâu và cập nhật. Lĩnh vực vi mạch và chip bán dẫn là ngành công nghệ cao, có tốc độ phát triển cực nhanh, trong khi đội ngũ giảng viên tại nhiều trường đại học ở Việt Nam có nền tảng kỹ thuật điện – điện tử truyền thống, nhưng chưa được tiếp cận đủ sâu với các mảng then chốt như IC design, RTL verification, EDA tools, hoặc semiconductor process.

Ngoài ra, còn thiếu môi trường nghiên cứu – thực hành chuyên sâu. Đào tạo trong lĩnh vực vi mạch cần thực hành công cụ công nghiệp, sử dụng các nền tảng như Cadence, Synopsys, Silvaco..., vốn yêu cầu chi phí bản quyền cao và tài nguyên phần cứng mạnh.

Việc thiếu phòng lab đạt chuẩn, thiết bị mô phỏng, máy chủ chuyên dụng khiến giảng viên khó có điều kiện tiếp cận sát với thực tế sản xuất và thiết kế.

Cơ chế tuyển dụng – đãi ngộ chưa hấp dẫn, nhiều giảng viên trẻ, có chuyên môn tốt sau khi du học về thường bị hạn chế bởi mức lương và môi trường nghiên cứu chưa tương xứng. Trong khi các doanh nghiệp nước ngoài sẵn sàng trả mức lương cao gấp nhiều lần, thì việc giữ chân nhân lực chất lượng cao trong môi trường đại học vẫn là một thách thức lớn.

Thầy Chí chỉ ra, ở góc độ tổng thể, có thể chia đội ngũ giảng viên giảng dạy lĩnh vực công nghệ then chốt và bán dẫn đang chia thành 3 nhóm.

Nhóm 1: Một số giảng viên được đào tạo bài bản tại nước ngoài như Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan (Trung Quốc)... hiện đang giảng dạy tại các trường như Đại học Bách khoa Hà Nội. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Việt–Nhật (Đại học Quốc gia Hà Nội), Trường Đại học FPT, Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp (Đại học Thái Nguyên)... có nền tảng tốt về thiết kế vi mạch, nhưng lực lượng này còn mỏng.

Nhóm 2: Phần đông giảng viên các trường kỹ thuật hiện nay vẫn có năng lực vững về lý thuyết, nền tảng khoa học cơ bản (toán, điện tử, tín hiệu...), nhưng còn thiếu kiến thức cập nhật về công cụ thiết kế IC hiện đại, các tiêu chuẩn công nghiệp, hoặc chưa từng tham gia dự án thực tế.

Nhóm 3: Một bộ phận giảng viên đang chuyển đổi từ các ngành gần (tự động hóa, kỹ thuật điện, công nghệ thông tin) sang vi mạch, nhưng chưa được hỗ trợ đào tạo lại bài bản, nên khả năng đáp ứng yêu cầu giảng dạy và nghiên cứu chuyên sâu còn hạn chế.

z6692941293245-247ce032430f53212e42b62f66e493c3.jpg
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Chí - Trưởng khoa Khoa Điện tử, Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp (Đại học Thái Nguyên) (ngoài cùng bên phải) trong chuyến công tác tại Đài Loan (Trung Quốc) về đào tạo bán dẫn và vi mạch. Ảnh: NVCC.

Dưới góc nhìn của Tiến sĩ Nguyễn Đức Dũng - giảng viên Khoa Vật liệu điện tử và linh kiện, Trường Vật liệu, Đại học Bách khoa Hà Nội: "Công nghệ chip bán dẫn và vi mạch không phải là lĩnh vực mới, nhưng trước đây Việt Nam chưa đủ hệ sinh thái để phát triển.

Bây giờ, việc hội nhập quốc tế và sự hiện diện của các doanh nghiệp lớn trong ngành bán dẫn tại Việt Nam cùng nhu cầu nhân lực chất lượng cao đang tăng mạnh đã tạo động lực và niềm tin cho cả người học và người dạy. Đồng thời, điều này cũng thúc đẩy giáo dục phát triển theo hướng thực tiễn hơn.

Việc kết hợp giữa lý thuyết chuyên sâu và kinh nghiệm thực tiễn sẽ giúp nâng cao hiệu quả giảng dạy. Bởi tính ứng dụng của công nghệ trong tư duy sản xuất là yếu tố cốt lõi. Tuy nhiên, chương trình giảng dạy hiện tại chưa thực sự bám sát nhu cầu thực tế của ngành sản xuất. Do đó, giảng viên cần không ngừng tự đổi mới, hoạch định chiến lược phát triển bản thân".

Cùng bàn luận về vấn đề này Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Quốc Trung - Hiệu trưởng Trường Đại học Quốc tế Bắc Hà bày tỏ: "Đội ngũ giảng viên có năng lực giảng dạy và nghiên cứu chuyên sâu về công nghệ bán dẫn tại Việt Nam hiện còn hạn chế.

Đây là một thách thức lớn trong bối cảnh ngành công nghiệp bán dẫn đang được Chính phủ xác định là mũi nhọn nhằm thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Trước mắt, để đáp ứng nhu cầu cấp bách, Việt Nam có thể tận dụng đội ngũ giảng viên từ các ngành gần như điện, điện tử. Về lâu dài, chúng ta vẫn cần xây dựng một đội ngũ chuyên sâu, được đào tạo bài bản và chuẩn hóa về công nghệ bán dẫn, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của ngành".

Cần những thay đổi mang tính hệ thống trong đào tạo sau đại học

Để hiện thực hóa mục tiêu về phát triển đội ngũ giảng viên, nhà khoa học trong các lĩnh vực khoa học cơ bản, công nghệ chip bán dẫn, vi mạch và các công nghệ then chốt, theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Chí, Việt Nam cần thực hiện những thay đổi và bổ sung mang tính hệ thống trong đào tạo sau đại học.

Đầu tiên phải đổi mới chương trình đào tạo sau đại học theo chuẩn công nghệ quốc tế. Xây dựng chương trình thạc sĩ và tiến sĩ tích hợp với các công nghệ lõi, theo hướng cập nhật với chuẩn quốc tế như IEEE, JEDEC, hoặc các framework nghề nghiệp quốc tế trong lĩnh vực vi mạch, AI, điện tử công suất, vật liệu bán dẫn...; Tăng tỷ lệ học phần dựa trên dự án thực tế (project-based learning), thay vì nặng về lý thuyết hàn lâm; Bổ sung các module đào tạo về EDA tools, chip verification, system-on-chip design, fabrication process, các kỹ thuật mô phỏng – thiết kế hiện đại bằng Cadence, Synopsys, Silvaco…

Bên cạnh đó, tăng cường liên kết đào tạo với doanh nghiệp và viện nghiên cứu trong và ngoài nước. Thiết lập mô hình đào tạo sau đại học "song hành với doanh nghiệp" (dual-track): học viên cao học được tham gia dự án công nghiệp thật tại các doanh nghiệp như Công ty Cổ phần bán dẫn FPT, Trung tâm thiết kế IC Viettel, Công ty Renesas Việt Nam...; Hợp tác quốc tế để phát triển chương trình liên kết cao học và tiến sĩ với các đại học mạnh về công nghệ bán dẫn (như Đại học Công nghệ Nanyang, Trường Đại học Tohoku, Viện Khoa học và Công nghệ tiên tiến Hàn Quốc…); Tạo điều kiện cho nghiên cứu sinh làm luận án tiến sĩ theo định hướng nghiên cứu ứng dụng hoặc chuyển giao công nghệ, thay vì thuần lý thuyết.

Ngoài ra, cần cải cách chính sách học bổng và thu hút nguồn lực chất lượng cao. Thiết kế các gói học bổng toàn phần cho chương trình thạc sĩ và tiến sĩ trong lĩnh vực công nghệ then chốt, với nguồn lực từ nhà nước, doanh nghiệp và các quỹ đầu tư công nghệ; Áp dụng mô hình "cam kết làm việc – đào tạo", cấp học bổng cao học – tiến sĩ kèm theo cam kết làm việc 3–5 năm tại các doanh nghiệp công nghệ cao trong nước sau khi tốt nghiệp; Tăng đãi ngộ và hỗ trợ nghiên cứu nhằm giữ chân nghiên cứu sinh giỏi sau tốt nghiệp, tránh “chảy máu chất xám” ra khu vực tư nhân hoặc nước ngoài.

Đầu tư đồng bộ cho hạ tầng nghiên cứu – đào tạo sau đại học cũng là vấn đề cần quan tâm. Phát triển các phòng thí nghiệm trung tâm hoặc trung tâm công nghệ vi mạch cấp quốc gia, cho phép sinh viên sau đại học tiếp cận trực tiếp với công cụ thiết kế, mô phỏng, kiểm thử hiện đại; Kết nối các trường đại học theo mô hình chia sẻ tài nguyên EDA – IP – thiết bị nghiên cứu, giúp tối ưu chi phí và đồng bộ đào tạo giữa các đơn vị.

Cuối cùng, đổi mới tiêu chí đánh giá và chuẩn đầu ra cho bậc sau đại học. Chuyển trọng tâm đánh giá năng lực sau đại học từ “công bố lý thuyết” sang năng lực giải quyết bài toán công nghệ thực tiễn, có thể đo bằng: sản phẩm công nghiệp, mô hình thử nghiệm, bằng sáng chế, giải pháp chuyển giao; Chuẩn đầu ra cần bao gồm cả năng lực sử dụng công cụ công nghiệp (EDA tools), kỹ năng làm việc nhóm, tư duy đổi mới sáng tạo và năng lực viết – trình bày kỹ thuật bằng tiếng Anh.

Theo quan điểm của Tiến sĩ Nguyễn Đức Dũng: "Việt Nam không thiếu “mầm” hay “giống” tài năng, nhưng cần một môi trường thuận lợi – như một “mảnh đất tốt” để đội ngũ giảng viên và nhà khoa học có thể phát huy hết khả năng.

Việc thiếu thiết bị, cơ sở vật chất hoặc môi trường phù hợp sẽ là rào cản hạn chế sự phát triển. Vì vậy, cần kết nối các bên liên quan, xây dựng cơ chế mở giúp thu hút và giữ chân giảng viên giỏi.

Đặc biệt, việc hợp tác giữa giảng viên, nhà khoa học và doanh nghiệp cũng cần được đẩy mạnh nhằm tạo cơ hội ứng dụng thực tiễn, kích thích đổi mới sáng tạo, tăng cường nguồn lực và cơ hội phát triển.

Khó khăn trong hợp tác đang nằm ở việc thiếu các đề bài rõ ràng để hai bên cùng giải quyết. Đôi khi chỉ cần xuất phát từ những vấn đề cụ thể, dù nhỏ nhưng có thể tạo ra những chuyển biến lớn, tác động trực tiếp đến sự phát triển bền vững của ngành cũng như doanh nghiệp".

Thầy Dũng còn nhấn mạnh, phải chú ý, sử dụng các nguồn lực một cách hiệu quả, tránh lãng phí, không chạy theo xu hướng nhất thời.

vi-mach-2-1693529093375-9845.jpg
Ảnh minh họa: Website Đại học Bách khoa Hà Nội.

Nhằm thu hút và giữ chân nhân tài trong lĩnh vực bán dẫn, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Quốc Trung khẳng định cần kết hợp hai yếu tố: động viên về kinh tế và khơi dậy tinh thần cống hiến vì đất nước.

"Một chế độ đãi ngộ hấp dẫn với mức thu nhập cao là điều kiện cần để lôi kéo các chuyên gia và giảng viên có trình độ, nhất là trong bối cảnh cạnh tranh nhân lực toàn cầu.

Mặc dù vậy, chỉ yếu tố kinh tế chưa đủ, tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc và ý thức đóng góp cho sự vươn lên của quốc gia mới là động lực bền vững trong việc giữ chân người tài.

Một vấn đề quan trọng khác là sự hợp tác chặt chẽ giữa các cơ sở đào tạo, viện nghiên cứu và doanh nghiệp trong ngành công nghệ cao. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn e dè trong việc đầu tư vào lĩnh vực bán dẫn do ưu tiên lợi nhuận ngắn hạn. Điều này khiến việc kết nối với các trường đại học và viện nghiên cứu gặp khó khăn.

Các doanh nghiệp cũng cần thay đổi tư duy, thể hiện quyết tâm và tinh thần vì mục tiêu chung của đất nước. Họ có thể tham gia vào quá trình đào tạo bằng cách hỗ trợ thiết bị thí nghiệm, tài trợ nghiên cứu, hoặc cùng xây dựng chương trình giảng dạy sát với thực tiễn sản xuất. Sự hợp tác này không chỉ giúp nâng cao chất lượng đào tạo mà còn tạo cơ hội giúp sinh viên và giảng viên tiếp cận với các công nghệ mới, từ đó đáp ứng nhu cầu nhân lực của ngành.

Chúng ta cũng có thể học hỏi mô hình của các nước phát triển về lĩnh vực trên thế giới, nhưng việc học hỏi cần đi đôi với sự sáng suốt, phải dựa trên nguồn lực nội tại và phù hợp với hoàn cảnh thực tế của Việt Nam" - thầy Trung chia sẻ.

Hồng Linh