Tờ Chiến tranh và Hòa bình của Nga mới đây dẫn lời học giả Vladimir Kolotov - chuyên gia lịch sử Việt Nam tại Đại học St. Petersburg, Giám đốc Viện Hồ Chí Minh tại Nga cho rằng, tham vọng bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc trên Biển Đông đã phản tác dụng vì nó đã giúp đối thủ Mỹ ngày càng tăng cường ảnh hưởng ở Đông Nam Á.
Theo ông Kolotov, tuyên bố chủ quyền (vô lý, phi pháp) của Trung Quốc ở Biển Đông được xem là một hành vi vi phạm chủ quyền trắng trợn tại Việt Nam.
Ông Vladimir Kolotov - chuyên gia lịch sử Việt Nam tại Đại học St. Petersburg, Giám đốc Viện Hồ Chí Minh tại Nga. |
Kể từ giữa thế kỷ 20, trong khi Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn trong hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, Trung Quốc đã liên tục sử dụng vỏ bọc của các sự kiện đối ngoại để mở rộng ảnh hưởng của mình tại Biển Đông, sử dụng vũ lực để mở rộng quyền kiểm soát Biển Đông.
Năm 1974, khi Việt Nam đang chuẩn bị giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, Trung Quốc đã cất quân xâm lược nốt nửa phía Tây quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Năm 1988, Trung Quốc tấn công quần đảo Trường Sa và chiếm một số thực thể.
Trong cả hai sự kiện này, các cường quốc lớn đã không có biện pháp ứng phó nào hay xem nó là một vấn đề cần thiết phải can thiệp.
Năm 2014, Trung Quốc bắt đầu bồi lấp (bất hợp pháp) ở Trường Sa, biến các thực thể lúc chìm lúc nổi thành những hòn đảo nhân tạo và căn cứ quân sự dẫn tới sự bùng nổ sự phẫn nộ tại Việt Nam.
Trung Quốc cũng tuyên bố chủ quyền đối với phần lớn Biển Đông, bao gồm cả lãnh thổ của các nước khác trong khu vực Đông Nam Á như Malaysia, Brunei, Philippines.
Theo ông Kolotov, Trung Quốc đã sử dụng chiến lược "tăng thù bớt bạn" để giành quyền kiểm soát Biển Đông thông qua một loạt các biện pháp mạnh bất chấp sự phản đối của các nước láng giềng.
Động thái này giống như Bắc Kinh đã đặt mình vào một cái bẫy, thúc đẩy các nước láng giềng tìm kiếm một đối trọng để hỗ trợ họ đối phó với ảnh hưởng của Trung Quốc và bảo vệ lợi ích sống còn của mình.
Sự cố gắng thay đổi cán cân quyền lực với các cường quốc khác của Trung Quốc ở nửa sau thế kỷ 20 đã bước qua giới hạn đỏ, kích hoạt phản ứng của các đối thủ địa chính trị khác là Mỹ và Nhật Bản, thúc đẩy các quốc gia này tăng cường hiện diện trong khu vực Đông Nam Á, biến Biển Đông thành một đấu trường phân chia ảnh hưởng địa chính trị mới.
Bắc Kinh muốn duy trì nguyên tắc tại Biển Đông là gây áp lực lên các nước nhỏ và hạn chế sự gia tăng ảnh hưởng của Mỹ trong khu vực. Nhưng sự thèm khát tăng ảnh hưởng của quốc gia này tỷ lệ thuận với sự phát triển của kinh tế và quân sự.
Ảnh 3ackpackers |
Sự lớn mạnh của Trung Quốc vừa trở thành cơ hội lại vừa là áp lực đối với các nước khác, đặc biệt là các nước láng giềng Đông Nam Á.
Theo chuyên gia Kolotov, trong năm 2015, Trung Quốc đã bắt đầu tiêu diệt các nền tảng quan hệ hòa bình và thân thiện trên cả phương diện chính trị và kinh tế mà quốc gia này đã mất nhiều công sức xây dựng từ đầu thế kỷ 21 với các nước Đông Nam Á, tạo cơ hội để Mỹ tăng cường hiện diện trong khu vực và tạo ra khối đối kháng với Bắc Kinh.
Nếu những gì đang xảy ra hiện nay ở khu vực Đông Nam Á không nằm trong kế hoạch ban đầu của Bắc Kinh, thì chính sách đó nên được xem là phản tác dụng, ông nhấn mạnh.
Chuyên gia Nga cho biết, cuộc bầu cử Tổng thống sắp tới tại Mỹ tất nhiên sẽ có những tác động đáng kể đến tình hình ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, nhưng không làm thay đổi các mục tiêu cốt lõi của Washington.
Việt Nam với cảng nước sâu Cam Ranh giữ một vị trí chiến lược rất lớn ở Biển Đông đã trở thành một đối tác rất hấp dẫn với cả Trung Quốc, Nga, Mỹ và Nhật Bản.
Tuy nhiên, chính phủ Việt Nam vẫn duy trì chính sách đối ngoại ba không: "Việt Nam cam kết không tham gia các liên minh quân sự và không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam, không dựa vào nước nào để chống nước khác", đặt vấn đề "độc lập và tự chủ" lên hàng đầu.
Ông Kolotov cho biết, sự gia tăng căng thẳng ở Biển Đông và sự tăng cường nhận thức về vấn đề chủ quyền lãnh thổ ở trong nước có thể tác động giúp làm tăng cơ hội thực hiện chính sách nhằm kiềm chế tham vọng bành trướng của Trung Quốc và tái lập quan hệ với Mỹ của Việt Nam sau Đại hội XII.
Chuyên gia Nga đánh giá cao các hoạt động của Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Ted Osius trong hơn một năm qua. Theo ông, những gì ông Osius đã làm được ở Việt Nam vượt xa những gì có thể nghĩ đến trước đó. Ông Oisus đã hoạt động với hiệu suất chưa từng có trong lĩnh vực ngoại giao, giúp nâng cao đáng kể vị thế và ảnh hưởng của Washington.
Trong khi đó, chuyên gia Nga thừa nhận rằng ảnh hưởng của Nga ở Đông Nam Á đang có xu hướng giảm. Ông cảnh báo về việc Moscow có thể mất các hợp đồng dầu mỏ và khí đốt, hợp tác quân sự-kỹ thuật với các nước trong khu vực và kêu gọi chính phủ Nga nên tăng cường ảnh hưởng tại khu vực này.
Việc Nga bận rộn với vấn đề Syria, không tích cực tham gia ở Biển Đông rất có lợi cho Trung Quốc, quốc gia vốn rất hy vọng rằng Moscow sẽ giữ quan điểm trung lập trong vấn đề này./.