Chùa của người Việt
Đầu xuân, chuyện du xuân đến những nơi thờ tự để cầu an, tỏ lòng thành kính là một trong những phong tục tốt đẹp của người Việt.
Không khí đất trời vào xuân cùng với khung cảnh trầm mặc của đền, chùa đã trở thành nét đẹp trong tâm thức của người Việt. Chùa ở Việt Nam thuộc về cộng đồng làng, xã (chùa làng).
Xây chùa bao giờ cũng là một việc trọng đại đối với làng quê Việt Nam. Đặc biệt, phong thủy đối với chùa cực kỳ quan trọng; phải đảm bảo vừa thoáng, vừa vững chắc.
Các ngôi chùa Việt Nam thường được xây dựng bằng các thứ vật liệu quen thuộc như tre, tranh cho đến gỗ, gạch, ngói…
Chùa Keo, ngôi chùa điển hình cho chùa của người Việt. (Ảnh: KT) |
Những vật liệu, tiền bạc dùng cho việc xây dựng chùa thường được quyên góp trong mọi tầng lớp nhân dân, những việc làm như vậy được gọi là “công đức”.
Các chùa nổi tiếng như chùa Một Cột, chùa Trấn Quốc (Hà Nội) ; chùa Keo (Thái Bình); chùa Dâu, chùa Bút Tháp, chùa Phật Tích (Bắc Ninh),… đều mang những kiến trúc mộc mạc.
Mọi người đến đây lòng thành và không có các hình thức kinh doanh. Cúng dường, các hòm công đức phần lớn là tiền lẻ và mọi người tùy tâm công đức, đóng góp xây dựng chùa.
Việc quyên góp tiền để xây chùa giúp người ta có niềm tin là sẽ được hưởng phúc từ lòng thành của bản thân.
Đối với nhiều làng quê Việt, mái đình, sân chùa là những hình ảnh quen thuộc. Nơi đó là khung cảnh thanh tịnh, giản đơn, ngăn nắp, tươm tất, gọn gàng.
Người ta đến chùa là để tìm thấy sự thanh tịnh trong tâm tưởng, các lễ vật được cọi là “lễ mọn, lòng thành”.
Trong hàng nghìn di tích quý báu, những đình chùa miếu mạo, những làng cổ độc đáo đang được chính quyền và nhân dân bảo tồn đều đã từng được xây dựng bằng tài sản và công sức của cộng đồng làng xã, của những người có tâm, có lòng hướng đến chốn tâm linh Phật pháp.
Công sức và tấm lòng của họ được nhân dân ghi nhớ, lưu truyền, không ít trường hợp còn được lưu lại trong văn bia được tạo dựng trang trọng trong khuôn viên của di tích.
Không ít làng cổ có hệ thống đường thôn ngõ xóm tuyệt đẹp bằng đá xanh, bằng gạch xuất phát từ những tục lệ tốt đẹp: mỗi cô gái khi đi lấy chồng có nghĩa vụ lát cho làng một đoạn đường bằng gạch, hoặc đá.
Từ công sức của mọi người đóng góp, tất cả đều trở thành tài sản của làng: từ cổng làng, cây đa, bến nước, sân đình, chùa chiền, miếu mạo… đều thiêng hóa, mọi người đều được thụ hưởng và có nghĩa vụ gìn giữ bảo vệ.
Các lễ hội dân gian truyền thống cũng được tổ chức bằng nhân tài vật lực của làng xã. Từ những hội làng đến những lễ hội lớn có tầm ảnh hưởng quốc gia như:
Hội chùa Hương, hội Phủ Giày, hội Gióng cũng đều do các làng xã diễn ra lễ hội chủ trì. Ban tổ chức lễ hội do nhân dân bầu ra gồm những người đạo cao đức trọng. Nhân dân cả làng, cả xã tùy tâm, tùy sự phân công mà đóng góp công sức, tiền của, hoàn toàn không vụ lợi.
Không ai có ý định kiếm lợi lộc ở những sinh hoạt văn hóa thiêng liêng như thế này.
Tuy nhiên, những năm gần đây, dường như đã có những nơi người ta toan tính, thương mại, núp bóng tâm linh.
Thời chùa của... đại gia
Những ngôi chùa, cơ sở thờ tự, chốn tâm linh thời gian gần đây dường như đang ngược lại với truyền thống văn hóa của dân tộc.
Theo thống kê của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, cơ sở thờ tự Phật giáo ở nước ta có sự phát triển mạnh mẽ trong 10 năm trở lại đây.
Nếu trong vòng 10 năm từ năm 1997 đến năm 2007 cơ sở thờ tự của nước ta chỉ tăng từ 14.048 ngôi lên 14.777 ngôi thì trong vòng 10 năm từ 2007 – 2017, cơ sở thờ tự của phật giáo tăng từ 14.777 ngôi lên đến 18.466 ngôi.
Ngôi chùa được coi là chùa to nhất thế giới. (Ảnh: NB) |
Đặc biệt trong 10 năm trở lại đây hàng loạt các ngôi chùa “kỷ lục” được xây dựng lên, ví dụ như khu Đại Nam quốc tự ở Bình Dương, chùa Bái Đính ở Ninh Bình hay mới đây nhất là ngôi chùa được cho là to nhất thế giới, Chùa Tam Chúc (Ba Sao, Hà Nam).
Chùa Bái Đính được ca ngợi là một ngôi chùa nổi tiếng với những kỷ lục châu Á và khu vực như tượng phật bằng đồng dát vàng lớn nhất châu Á, tượng phật Di lặc bằng đồng lớn nhất Đông Nam Á. Ngoài ra, chùa còn giữ hàng loạt kỷ lục Việt Nam… như rộng nhất to nhất lên đến hàng ngàn ha.
Sau chùa Bái Đính, chùa Tam Chúc đang nổi lên là một địa điểm du lịch tâm linh mới cũng với hàng loạt kỷ lục khác nhau và đang được cho là… to nhất thế giới.
Theo quy hoạch, khu du lịch quốc gia Tam Chúc sẽ có diện tích vùng lõi là 4.000 ha, trong đó quần thể chùa Tam Chúc bao gồm cả hồ nước là 1000ha.
Hay chùa Ba Vàng (Thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh) kinh phí xây dựng cũng lên tới 500 tỷ đồng cho ngôi chùa này.
Ngôi chùa đã trở thành một quần thể như cung điện nguy nga chứ không còn là ngôi chùa Ba Vàng xưa kia nữa.
Đặc điểm chung của các quần thể di tích này là chùa là vùng lõi còn xung quanh chùa là… nhà hàng, sân golf, khách sạn… và dường như chùa chỉ là cái cớ để người ta kinh doanh.
Những năm trở lại đây, dường như những chùa mới xây, chùa nào cũng đua nhau có kỷ lục; đầu tư hoành tráng để thu hút các “Phật tử”.
Nhưng không dành cho các “Phật tử” ít tiền khi vé vào cửa, vé dịch vụ… bủa vây phật tử khi hành hương đến với Phật.
Bên cạnh đó, có điều khá lạ là phàm những ngôi chùa mới hiện nay được các đại gia đầu tư xây dựng hoành tráng là được khoác thêm danh hiệu “thiêng nhất Việt Nam”…
Quần thể danh thắng Tràng An thành di sản thế giới hỗn hợp đầu tiên của Việt Nam khi đáp ứng cả hai yếu tố nổi bật về văn hóa và thiên nhiên.
Quần thể chùa Bái Đính. (Ảnh: Wiki) |
Với những ngôi chùa “hoành tráng”, đại gia như vậy đang làm quần thể danh thắng ngày càng một biến tướng, thậm chí đã có hành động xâm vào vào vũng lõi di sản.
Tuy nhiên, có lẽ những nguy cơ về văn hóa đó đang không làm các đại gia xây chùa động lòng, vượt qua được lợi nhuận của hoạt động du lịch tâm linh mạng lại.
Nhìn vào dòng người đổ về chùa Tam Chúc ngay cả khi chưa xây dựng xong hay dòng người đến với chùa Bái Đính mới thấy kinh doanh gần khu tâm linh thu lời lớn như thế nào.
Có lẽ thời buổi giờ chỉ có ngành du lịch tâm linh, hay kinh doanh tâm linh là ăn nên làm ra nhanh nhất, xây chùa hoành tráng và sớm thu hồi vốn, theo kiểu "mì ăn liền".
Tiền lẻ thôi nhưng là là tiền tươi, thóc thật, là tiền sạch nói như ngôn ngữ thời thượng - đồng “tiền hữu cơ”.
Ngành nghề khác có làm ăn thua lỗ, có đóng cửa, phá sản thì kinh doanh dựa vào tâm linh vẫn phát triển rất mạnh.
Xây chùa to không phải là chủ trương của Phật Giáo Cố Trưởng lão Thích Thông Lạc (Viện trưởng Tu Viện Chơn Như) đã từng nói: “ Vì lấy con người làm gốc, nên Phật giáo phải xây dựng con người. Xây dựng con người để trở thành những kỳ quan thế giới bằng chất liệu đức hạnh không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Theo chúng tôi thiết nghĩ, đó là một kỳ quan thế giới tuyệt vời. Xứng đáng để con người tự hào, hãnh diện về con người thì mới đúng nghĩa. Còn xây chùa to, Phật lớn, lấy chất liệu đất đá mô phỏng theo hình thức vạn vật vũ trụ thiên nhiên tạo ra, rồi tự hào bảo nhau đó là kỳ quan thế giới. Thực tế trên hành tinh này, vũ trụ đã xây dựng biết bao nhiêu kỳ quan đẹp đẽ gấp trăm ngàn lần những kỳ quan của loài người, như Vịnh Hạ Long, động Phong Nha, v.v... So với những cảnh này, con người có làm được như vậy không? Những kỳ quan thế giới hiện giờ chỉ là những sự mô phỏng bắt chước thiên nhiên vũ trụ, vẻ hùng vĩ đẹp đẽ của nó còn thua xa vũ trụ gấp trăm ngàn lần như trên đã nói, thì có gì mà chúng ta tự hào? Những vật chất này đều vô thường, không bền chắc, không giữ gìn được lâu dài, chỉ một trận động đất thì những kỳ quan này còn bảo tồn được nữa không? Một kỳ quan của loài người, lấy chất liệu đạo đức xây dựng thì động đất không làm hư hoại, lũ lụt không trôi, bão tố không làm sụp đổ, hỏa hoạn không thiêu đốt được, đi khắp bốn phương, ngược gió cũng không trở ngại. Phật giáo chủ trương như vậy, vì lấy con người làm gốc, nên người nào đi ngược lại, xây dựng chùa to, Phật lớn thì không phải Phật giáo, mà là Thần đạo, là đạo mê tín, là đạo lường gạt con người”… |