Đẩy mạnh hơn nữa công cuộc chuyển đổi số trong giáo dục, góp phần xây dựng nền kinh tế số, xã hội số
Chiều ngày 13/5, Trường Đại học Mở Hà Nội và Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp tổ chức Hội thảo quốc gia “Chuyển đổi số trong giáo dục mở thúc đẩy học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập”.
Hội thảo được tổ chức theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến.
Tham dự hội thảo, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn, Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Phan Tâm. Cùng dự có Phó Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam Nguyễn Hồng Sơn; đại diện Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam; Hội Truyền thông số Việt Nam; nhiều cơ sở giáo dục, các chuyên gia, nhà khoa học, đại diện doanh nghiệp…
Phát biểu khai mạc hội thảo, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thị Nhung - Hiệu trưởng Trường Đại học Mở Hà Nội cho biết, với mục tiêu góp phần thúc đẩy mạnh mẽ, toàn diện công tác chuyển đổi số trong giáo dục đào tạo, đặc biệt là giáo dục mở để tạo cơ hội học tập bình đẳng của người dân, thúc đẩy học tập suốt đời của từng cá nhân và toàn xã hội, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng các yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế, Trường Đại học Mở Hà Nội và Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp, đồng tổ chức Hội thảo quốc gia “Chuyển đổi số trong giáo dục mở thúc đẩy học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập”.
Phó Giáo sư Nguyễn Thị Nhung đề cập: “Chuyển đổi số trong các lĩnh vực vừa là nhu cầu, vừa là yêu cầu, và là vấn đề không mới, thậm chí được đề cập ở khá nhiều diễn đàn.
Hội thảo ngày hôm nay cũng bàn về vấn đề thời sự đó, nhưng chỉ tập trung vào chuyển đổi số trong giáo dục, trọng tâm là chuyển đổi số trong giáo dục mở, như thực trạng về hạ tầng, nền tảng công nghệ trong quản lý, quản trị, tác nghiệp, vận hành; thực trạng trong công tác xây dựng, quản lý chất lượng, chia sẻ tài nguyên giáo dục, học liệu mở phục vụ việc tự học và học tập suốt đời của người dân.
Từ đó, có căn cứ, cơ sở để đề xuất các giải pháp phù hợp, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn cho các hoạt động chuyển đổi số, đặc biệt là trong giáo dục mở; các giải pháp về nền tảng công nghệ, kết nối, tạo môi trường thuận lợi cho người học được tiếp cận, được công nhận kiến thức học tập thường xuyên, học tập suốt đời; các giải pháp thúc đẩy sự sẵn sàng của nhà giáo trong hoạt động trên môi trường số, sự sẵn sàng của người học trong việc tiếp thu kiến thức, tích luỹ kỹ năng trên nền tảng công nghệ để trở thành công dân số, công dân học tập toàn cầu”.
“Với các mục tiêu và yêu cầu đặt ra, hội thảo đã thu hút được được sự quan tâm của đông đảo của các nhà quản lý, nhà khoa học, doanh nghiệp, nhà giáo, người học tham gia viết bài, tham luận, và tới tham dự.
Sự hiện diện, chủ trì và có ý kiến chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ tạo động lực, thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa, khẳng định vai trò tiên phong của giáo dục trong công việc không dễ nhưng không thể chậm trễ và trì hoãn.
Chúng tôi hy vọng rằng, sự kiện là một trong những hoạt động thiết thực, có ý nghĩa quan trọng nhằm đẩy mạnh hơn nữa công cuộc chuyển đổi số trong giáo dục, góp phần xây dựng nền kinh tế số, xã hội số ở Việt Nam” - Hiệu trưởng Trường Đại học Mở Hà Nội bày tỏ.
Còn những vấn đề cần được nhìn nhận một cách thấu đáo
Phát biểu tại hội thảo, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Kim Sơn - Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo khẳng định: “Chuyển đổi số trong giáo dục đã đang diễn ra mạnh mẽ, với mục tiêu tăng cường áp dụng tiến bộ của công nghệ trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập để từng bước nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, mở rộng cơ hội tiếp cận giáo dục, tăng cường hiệu quả quản lý giáo dục và xây dựng nền giáo dục mở thích ứng trên nền tảng số.
Để đạt được các mục tiêu đó, có sự vào cuộc của nhiều bên liên quan. Cụ thể, các cơ sở giáo dục đã chủ động, tích cực ứng dụng công nghệ số trong tổ chức các hoạt động quản lý, tổ chức đào tạo, nâng cao hiệu quả hoạt động, đáp ứng nhu cầu học tập của người dân.
Các cấp quản lý có sự thay đổi mạnh mẽ về nhận thức, chỉ đạo quyết liệt, triển khai có hệ thống về việc ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số giáo dục đào tạo trong tổng thể Chương trình chuyển đổi số quốc gia.
Và tất nhiên, không thể thiếu sự ủng hộ, tham gia của mỗi người học, mỗi nhà giáo và toàn xã hội, bởi, lợi ích mang lại cho người học, đội ngũ nhà giáo và người dân là thước đo chủ yếu đánh giá mức độ thành công của công cuộc chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo”.
Theo Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đặt ra nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế.
“Điều này đòi hỏi triển khai hiệu quả hệ thống giáo dục quốc dân, thực hiện đa dạng hóa phương thức đào tạo dựa theo mô hình giáo dục mở; phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục và đào tạo đáp ứng nhu cầu học tập, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập; chuẩn bị nguồn nhân lực cho chuyển đổi số tiến tới Chính phủ số, nền kinh tế số, xã hội số, công dân số một cách phù hợp, thực chất và hiệu quả.
Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số đòi hỏi người lao động phải có năng lực số. Nhà trường chính là nơi đào tạo, bồi dưỡng và phát triển năng lực thiết yếu đó. Và mọi công dân có trách nhiệm và quyền lợi được học tập thường xuyên, học suốt đời, tận dụng mọi cơ hội học tập để trở thành công dân số, công dân học tập toàn cầu.
Điều này đặt ra yêu cầu đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ thông tin, nhằm nâng cao năng lực hoạt động của các cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục thường xuyên và các thiết chế văn hóa khác” - Bộ trưởng phân tích.
Mặc dù có nhiều nỗ lực trong thời gian qua, công tác chuyển đổi số của ngành giáo dục dẫu đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, nhưng Bộ trưởng nhìn nhận vẫn còn nhiều thách thức.
Trong đó, Bộ trưởng chỉ ra: “Còn những vấn đề cần được nhìn nhận một cách thấu đáo; cần đánh giá đúng hiện trạng, cùng nhau kiến nghị, đề xuất các giải pháp để công cuộc này thực sự đem lại những kết quả thiết thực, góp phần đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, cung cấp nhân lực với đầy đủ năng lực, kỹ năng, thái độ, đáp ứng sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế số, xã hội số.
Các vấn đề liên quan đến tiêu chuẩn, tiêu chí thế nào thì được công nhận là đại học thông minh, đại học số; cơ chế phối hợp xây dựng, tích hợp, đảm bảo chất lượng, chia sẻ, khai thác nguồn tài nguyên giáo dục mở, học liệu mở, các khoá học trực tuyến đại chúng mở của các cơ sở giáo dục, các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước; chính sách ghi nhận, công nhận kết quả tự học từ các nền tảng số và truyền thông... yêu cầu cần được làm sáng tỏ trong thời gian sắp tới”.
“Và một lần nữa cần khẳng định lại rằng, để có thể thành công trong công cuộc chuyển đổi số trong giáo dục đào tạo, cùng với sự quyết liệt của các cơ quan Trung ương, cần có sự tham gia tích cực của các cơ sở giáo dục, đào tạo ở các bậc, các thiết chế văn hoá từ Trung ương đến địa phương, của cộng đồng xã hội và sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế” - Bộ trưởng nhấn mạnh.
Theo Bộ trưởng đánh giá, việc Trường Đại học Mở Hà Nội và Trường Đại học Thành phố Hồ Chí Minh đồng tổ chức Hội thảo “Chuyển đổi số trong giáo dục mở thúc đẩy học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập” là việc rất ý nghĩa, có tính thời sự, thiết thực cả về nội dung chuyên môn, đồng thời thể hiện sự gắn kết giữa các cơ sở giáo dục đại học trong nghiên cứu, hỗ trợ và phục vụ cộng đồng.
Đây là một diễn đàn để các quý vị đại biểu, các nhà khoa học, các bên liên quan cùng trao đổi, thảo luận, chia sẻ kinh nghiệm, đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm thúc đẩy mạnh mẽ, toàn diện công tác chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo, tạo cơ hội học tập bình đẳng của người dân ở các vùng miền, thúc đẩy học tập suốt đời của xã hội và cá nhân.
Đây cũng là dịp để các cơ quan quản lý nhìn nhận các vấn đề, thực trạng, các yêu cầu từ thực tiễn để làm cơ sở xây dựng các cơ chế, chính sách phù hợp.
Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn đề nghị, trong khuôn khổ hội thảo tập trung, thảo luận về một số vấn đề:
Thứ nhất, tiếp tục làm rõ các khái niệm, cơ sở lý luận về “chuyển đổi số trong giáo dục, chuyển đổi số trong giáo dục mở”, “kỹ năng, năng lực số của xã hội”, “xã hội số, công dân số”, “đại học số, đại học thông minh”, “mô hình tài nguyên giáo dục mở, khóa học trực tuyến đại chúng mở, học liệu mở”,..;
Thứ hai, kinh nghiệm, xu hướng của thế giới về mô hình đại học số, đại học ảo, đại học thông minh; cơ hội, thách thức, và giải pháp chuyển đổi số các mô hình đại học ở Việt Nam;
Thứ ba, làm rõ thực trạng, những khó khăn, vướng mắc, những yêu cầu đặt ra và giải pháp đối với chuyển đổi số trong giáo dục nói chung, trong giáo dục mở nói riêng để đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời;
Thứ tư, các đề xuất về giải pháp phát triển hạ tầng công nghệ, hạ tầng kết nối thông tin, các nền tảng, công cụ thông minh; hoàn thiện cơ sở dữ liệu; xây dựng tài nguyên giáo dục mở, học liệu mở, khóa học trực tuyến và chia sẻ, khai thác;
Thứ năm, các đề xuất, kiến nghị về công tác quản lý, tạo môi trường kết nối, chia sẻ thông tin, dữ liệu giữa cơ quan quản lý, cơ sở giáo dục và người học; cơ chế kiểm soát, đảm bảo an ninh, an toàn, đảm bảo chất lượng và các quy định về sở hữu trí tuệ trong việc khai thác, chia sẻ dữ liệu, học liệu mở, tài nguyên giáo dục mở, các khóa học trực tuyến.
Thể chế phải đi trước một bước, để tạo không gian, nguồn lực phát triển
Tại Hội thảo, Tiến sĩ Phan Tâm - Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông cũng chia sẻ: “Với sự phát triển rất nhanh chóng của công nghệ số, chúng ta có thể tin tưởng vào việc thúc đẩy học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập thông qua giáo dục mở, với ứng dụng công nghệ số, để qua đó khắc phục được nhiều hạn chế của giáo dục mở trước đây”.
Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông đề cập một số ý kiến chia sẻ về giải pháp khắc phục những hạn chế đã được chỉ ra:
Thứ nhất, về vấn đề phát triển giải pháp công nghệ cho các chủ thể, cho các đối tượng tham gia và các bên có liên quan trong giáo dục mở: Có thể thấy rằng, giải pháp công nghệ là yếu tố giúp định hình trải nghiệm học tập, nâng cao chất lượng giáo dục, nhưng công nghệ thì cũng luôn đi đôi với chi phí và nếu chi phí cao quá thì lại vô tình tạo ra rào cản trong biện pháp học tập đông đảo của người dân.
Bên cạnh đó, đối với cơ sở giáo dục đại học lớn như Trường Đại học Mở Hà Nội, Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, hay ngay kể cả với Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông - là đơn vị trực thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông, thì việc phát triển và lựa chọn những nền tảng công nghệ, giải pháp công nghệ để đưa hoạt động của mình lên môi trường số cũng không phải là thế mạnh.
Và lựa chọn giải pháp công nghệ thì không chỉ đơn thuần là vấn đề công nghệ mà còn có nghĩa là lựa chọn mô hình hoạt động hoàn toàn khác so với mô hình hoạt động truyền thống hiện nay.
Để giải quyết vấn đề này, Bộ Thông tin và Truyền thông đã nghiên cứu và ban hành những biên bản đầu tiên về bản đồ công nghệ số trong giáo dục đại học. Và bản đồ này có thể phục vụ cho các nhà hoạch định chiến lược giáo dục và các nhà quản lý giáo dục, các tổ chức giáo dục... để có cái nhìn tổng quan hơn về sự phát triển cũng như ứng dụng công nghệ số trong hoạt động giáo dục.
Bộ Thông tin và Truyền thông đã, đang và sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc chỉ đạo các doanh nghiệp công nghệ số đồng hành cùng hai Bộ, với các cơ sở giáo dục để thúc đẩy phát triển các ứng dụng công nghệ số trong giáo dục, đặc biệt là các nền tảng giáo dục số, để bình dân hóa việc đưa công nghệ số vào trong giáo dục với mức chi phí phù hợp và phù hợp với khả năng tiếp cận của đa số người dân.
Thứ hai, về vấn đề nâng cao khả năng tiếp cận của giáo dục mở, triển khai ứng dụng công nghệ, Bộ Thông tin và Truyền thông thấy rằng, để cải thiện, ngành thông tin và truyền thông sẽ phải tiếp tục thúc đẩy phổ cập hạ tầng số cũng như kỹ năng số.
Đối với hạ tầng số, hiện nay Bộ Thông tin và Truyền thông đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và cũng đã bắt tay triển khai quy hoạch hạ tầng thông tin truyền thông, với quan điểm hạ tầng thông tin truyền thông, hạ tầng số cho chuyển đổi số quốc gia, mở ra không gian phát triển mới theo các phương thức mới cho kinh tế và xã hội, trong đó, có giáo dục đào tạo, các hoạt động học tập suốt đời. Và qua đó, tạo ra môi trường thuận lợi để xây dựng kinh tế số và xã hội số.
Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ tiếp tục thúc đẩy mạnh mẽ việc xóa bỏ vùng lõm sóng di động, cũng như tiếp tục phổ cập các thiết bị đầu cuối thông minh, phổ cập hạ tầng Internet với tốc độ cao,... làm sao ở mọi vùng miền của đất nước, mọi người dân đều có thể tiếp cận các nền giáo dục số.
Thứ ba, về đào tạo kỹ năng số, Bộ Thông tin và Truyền thông cũng đã phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo và một số bộ ngành khác để tham mưu cho Chính phủ ban hành Đề án 146 về nâng cao nhận thức, phổ cập kỹ năng và phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
Trong đề án, xác định rõ quan điểm phổ cập kỹ năng số là “chìa khóa” để người dân tiếp cận kiến thức, kỹ năng số, để cùng tham gia vào quá trình chuyển đổi số, mở ra cơ hội tiếp cận các dịch vụ số, bình đẳng, giúp xây dựng một xã hội số bao trùm và toàn diện.
Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ tiếp tục phối hợp tốt hơn với Bộ Giáo dục và Đào tạo và các cơ quan quản lý khác, để tổ chức thực hiện và thúc đẩy tổ chức thực hiện đầy đủ của trách nhiệm đầy đủ 5 nhiệm vụ và 3 giải pháp trực tiếp liên quan đến việc phổ cập kỹ năng số.
Thứ tư, về vấn đề phát triển tài nguyên giáo dục mở, việc đầu tiên cần phải làm đó là số hóa và mở dữ liệu. Bộ Thông tin và Truyền thông cũng mong muốn có sự phối hợp chặt chẽ hơn của Bộ Giáo dục Đào tạo trong việc hoàn thiện thể chế và chính sách về dữ liệu, đặc biệt dữ liệu liên quan đến giáo dục. Cụ thể, chúng ta cần những quy định về hình thức xử lý dữ liệu, quyền tài sản dữ liệu, chính sách mua bán dữ liệu, liên quan đến học liệu số, học liệu mở, đưa dữ liệu trở thành một loại tài sản được pháp luật bảo vệ và tạo ra thị trường dữ liệu, xây dựng các quy định về nghĩa vụ và trách nhiệm của các đơn vị vận hành các nền tảng giáo dục số, các quy định cũng như hệ thống giao dịch điện tử cho việc thu thập, lưu trữ, sử dụng, kết nối, chia sẻ và giao dịch các học liệu số....
Bên cạnh đó, là các quy định về tiêu chuẩn, quy chuẩn, các danh mục lưu trữ, kết nối, chia sẻ các dữ liệu mở, trong đó có học liệu số.
Thứ năm, về ứng dụng công nghệ số để nâng cao và đảm bảo chất lượng sư phạm trong giáo dục, dù bối cảnh nào, công nghệ nào thì chất lượng sư phạm vẫn luôn đóng vai trò quan trọng nhất đối với hoạt động giáo dục.
Do vậy, hoạt động là đánh giá, kiểm thử các nền tảng giáo dục số theo các yêu cầu về chất lượng sư phạm thì cần phải quan tâm hơn nữa và hai bộ cần phối hợp chặt chẽ với nhau trong việc hoàn thiện hành lang pháp lý, để đánh giá, kiểm thử các nền tảng giáo dục số cũng như các phần mềm giáo dục số để đảm bảo các mục tiêu sư phạm.
Bộ Thông tin và Truyền thông cũng mong muốn được đồng hành với Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc tổ chức đánh giá, công bố, xếp hạng các cơ sở giáo dục đào tạo theo các chuẩn quốc tế, đặc biệt chú trọng các chuẩn mực về chuyển đổi số trong giáo dục. Điều này là sự cần thiết để tạo ra sự minh bạch đối với người học, thúc đẩy các cơ sở giáo dục cạnh tranh, đẩy mạnh hơn nữa chuyển đổi số và thu hút các nguồn lực xã hội để nâng tầm chất lượng sư phạm.
Thứ sáu, về vấn đề lựa chọn mô hình chuyển đổi số cho giáo dục một cách phù hợp, đây là việc rất quan trọng và thực tiễn hiện nay trên thế giới có rất nhiều mô hình khác nhau, có thể là chuyển đổi số các mô hình trường đại học truyền thống hiện nay hoặc xây dựng trường đại học số hoàn toàn mới.
Với thực tiễn tại Việt Nam, Bộ Thông tin và Truyền thông đã đề xuất xây dựng Khung kiến trúc công nghệ cho đại học số. Trong đó, có các cấu phần cụ thể để gợi ý cho các trường đại học khi đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong đơn vị có thể tham khảo...
Đồng thời, Bộ Thông tin và Truyền thông đang chỉ đạo các doanh nghiệp, tập đoàn công nghệ số lớn tham gia phát triển giải pháp hỗ trợ cho giáo dục, trong đó có giáo dục số. Các trường đại học có nhu cầu, Bộ cũng sẵn sàng chỉ đạo các doanh nghiệp, đơn vị tham mưu trong việc hỗ trợ trong việc lựa chọn các giải pháp công nghệ, mô hình chuyển đổi...
Trong thời gian tới, Bộ cũng rất mong muốn được sự ủng hộ, phối hợp của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc đề xuất với Thủ tướng Chính phủ cho phép thí điểm thành lập các trường đại học số giống như một số mô hình trên thế giới. Và qua đó, thúc đẩy một cách thực chất giáo dục số và giải quyết được bài toán thiếu nguồn nhân lực hiện nay ở Việt Nam.
Thứ bảy, về hoàn thiện thể chế để xã hội công nhận và thực hiện sâu sắc hơn giá trị giáo dục mở, đại học mở, đại học số, để thực sự đi vào cuộc sống, thì thể chế là quan trọng, và thể chế phải đi trước một bước, để tạo ra không gian cũng như nguồn lực để phát triển. Nếu không có thể chế thì chúng ta chỉ dừng ở mức độ kêu gọi, khuyến khích và như vậy sẽ rất khó để hiện thực hóa việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
Vì vậy, đây là nội dung mà hai Bộ rất nên phối hợp chặt chẽ với nhau để tạo ra được bước đột phá về thể chế cho giáo dục mở, và qua đó thực sự hiện thực hóa tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh: “học nữa, học mãi trong trong kỷ nguyên số” - đó là mọi người có thể học mọi lúc, mọi nơi, theo nhu cầu của mình và phù hợp với năng lực của mình.
Rút ra những bài học, định hướng đối với phát triển giáo dục mở
Phát biểu đáp từ, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Minh Hà - Hiệu trưởng Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Những tư tưởng và triết lý về giáo dục mở đã khởi nguồn từ xa xưa trong lịch sử phát triển của nhân loại. Trong thời kỳ hiện tại, tư tưởng này đã được UNESCO nhắc đến vào năm 1948 và mô hình giáo dục mở đầu tiên có thể được xem là bắt đầu với sự ra đời của Trường Đại học Mở Anh quốc vào năm 1960.
Tại Việt Nam, hơn 30 năm qua, hai trường đại học mở đã được thành lập với các loại hình đào tạo phong phú và linh hoạt, nhằm đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng của xã hội, đã cho thấy chủ trương của Đảng và Nhà nước đối với vai trò giáo dục mở trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Sự phát triển của nền kinh tế - xã hội cùng với sự phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và xu hướng chuyển đổi số đã không làm thay đổi cái tư tưởng và mục tiêu cơ bản của giáo dục mở, mà càng làm cho vai trò của giáo dục mở trở nên quan trọng hơn, trong một thế giới phát triển nhanh và liên tục thay đổi. Đồng thời, các xu hướng này cũng tạo ra các điều kiện thuận lợi chưa từng có nhưng cũng đặt ra các thách thức và đòi hỏi phải xác định lại các mô hình, phương thức của việc thực hiện và quản lý giáo dục mở.
Đúng thế, cần có các nghiên cứu cả về lý thuyết lẫn thực tiễn về các khía cạnh và các vấn đề khác của giáo dục mở trong bối cảnh công nghiệp lần thứ tư và chuyển đổi số, nhằm đúc kết những kinh nghiệm thực tiễn trên thế giới và trong nước, từ đó làm cơ sở để định hướng cho các hoạt động sắp tới, ở mức độ vi mô từng đơn vị và vĩ mô quản lý nhà nước đối với giáo dục mở.
Với vai trò, nhiệm vụ của hai trường từ khi được thành lập, việc tổ chức hội thảo lần này là một trong những đóng góp của hai trường đại học mở với hy vọng sẽ rút ra những bài học và những gợi ý cho công tác quản trị và định hướng chính sách đối với việc phát triển giáo dục mở, góp phần xây dựng xã hội học tập”.
Tại Hội thảo đã diễn ra các phiên thảo luận hết sức sôi nổi, với nhiều vấn đề được quan tâm.
Phiên toàn thể do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn, Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Phan Tâm, Phó Giáo sư Nguyễn Thị Nhung - Hiệu trưởng Trường Đại học Mở Hà Nội và Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Minh Hà - Hiệu trưởng Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh chủ trì.
Các tham luận: “Chuyển đổi số thúc đẩy phát triển giáo dục theo hướng mở góp phần xây dựng xã hội học tập - Thực tiễn từ Trường Đại học Mở Hà Nội” (Tiến sĩ Dương Thăng Long - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Mở Hà Nội);
“Vai trò của các trường đại học mở trong giáo dục mở hiện đại” (Phó Giáo sư, Tiến sĩ Vũ Hữu Đức - Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh);
“Vai trò của kỹ năng số trong thúc đẩy học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập ở Việt Nam” (Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Minh Tuấn - Vụ Kinh tế số và Xã hội số, Bộ Thông tin và Truyền thông);
“Mô hình giáo dục đại học mới và xu hướng học tập suốt đời” (Tiến sĩ Tôn Quang Cường - Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội).
Sau phiên toàn thể, diễn ra phiên song song: Phiên song song 1 với nội dung “Các vấn đề liên quan đến chuyển đổi số trong giáo dục: thực trạng và giải pháp”.
Các tham luận: “Vai trò của các nhà lãnh đạo và quản lý giáo dục trong việc phát triển năng lực ứng dụng trí tuệ nhân tạo cho đội ngũ giảng viên cơ sở giáo dục đại học Việt Nam” (Tiến sĩ Kim Mạnh Tuấn - Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội).
“Xu hướng ứng dụng công nghệ trong dịch vụ hỗ trợ sinh viên tại các trường đại học mở” (Tiến sĩ Phan Thị Ngọc Thanh - Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh).
“Một số khuyến nghị về triển khai mô hình đại học số tại Việt Nam” (báo cáo viên Đặng Hải Đăng - Trường Đại học Mở Hà Nội).
“Hệ thống quản trị đại học số tổng thể của Viettel - Nền tảng quản lý toàn diện, xuyên suốt trong trường đại học hướng tới đào tạo mở và học tập suốt đời” (Tiến sĩ Trịnh Ngọc Trúc - Viettel).
Phiên song song 2 với nội dung “Các vấn đề liên quan đến tài nguyên giáo dục mở, học liệu mở: thực trạng và giải pháp”.
Các tham luận: “Vai trò của OER trong việc thực hiện triết lý giáo dục mở” (Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Văn Hùng).
“Đổi mới phương pháp dạy học của giảng viên ở các học viên, trường sĩ quan quân đội - Đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số hiện nay” (báo cáo viên: Tiến sĩ Đỗ Trung Linh - Trường Sĩ quan Chính trị, Bộ Quốc phòng).
“Các mô hình học tập đại chúng mở (MOOCS) trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam” (Thạc sĩ Nguyễn Phúc Quân - Phòng Quản lý Khoa học Trường Đại học Đông Á).
“Các mô hình bền vững tài nguyên giáo dục mở” (Tiến sĩ Lê Trung Nghĩa - Viện Nghiên cứu, đào tạo và phát triển tài nguyên giáo dục mở (InOER), Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam).