EMagazine

Học viện Dân tộc: Hầu hết sinh viên tại trường là người dân tộc thiểu số

Học viện Dân tộc: Hầu hết sinh viên tại trường là người dân tộc thiểu số

19/04/2024 06:38
Thi Thi
0:00 / 0:00
0:00

GDVN - Học viện Dân tộc xây dựng các đề án mở ngành đào tạo đại học và sau đại học đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi.

Ngày 8/8/2016, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1562/QĐ-TTg về việc thành lập Học viện Dân tộc, trực thuộc Ủy ban Dân tộc, trên cơ sở tổ chức lại Viện Dân tộc và Trường Cán bộ Dân tộc.

Nhân ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam (19/4), phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam đã có cuộc trao đổi với Thạc sĩ Hà Quang Khuê - Phó viện trưởng Viện trưởng phụ trách Viện Chiến lược và Chính sách dân tộc, Học viện Dân tộc.

Chia sẻ về ngày Văn hoá các dân tộc Việt Nam, Thạc sĩ Hà Quang Khuê nhấn mạnh: "Lịch sử dựng nước và giữ nước của người Việt Nam gắn liền với lòng tự tôn dân tộc, với tình đoàn kết giữa con người với con người, giữa dân tộc này với dân tộc khác trong cộng đồng người Việt để tạo nên thành công.

Sinh thời Bác Hồ đã căn dặn: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đã là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ có nhau, no đói giúp nhau”.

Ngày 17/11/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1668/QĐ-TTg, lấy ngày 19/4 hàng năm là ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam. Phải khẳng định rằng, đây là một sự kiện lớn, có ý nghĩa chính trị, văn hóa, xã hội nhân văn sâu sắc, ngày mà tất cả chúng ta cùng tôn vinh bản sắc văn hóa dân tộc. Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam 19/4 cũng là dịp để giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, nâng cao ý thức trách nhiệm về việc giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc, góp phần củng cố, thắt chặt, tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc".

Học viện Dân tộc thực hiện chiến lược phát triển theo từng giai đoạn

Thạc sĩ Hà Quang Khuê cũng chia sẻ về những dấu ấn đã đạt được trong hành trình Học viện Dân tộc thực hiện sứ mệnh "là trung tâm khoa học, giáo dục công lập, nghiên cứu về các dân tộc, chiến lược, chính sách dân tộc; đào tạo trình độ đại học, sau đại học góp phần phát triển nguồn nhân lực trình độ cao; bồi dưỡng kiến thức dân tộc cho cán bộ, công chức, viên chức trong nước và quốc tế":

gdvn_hvdt.png

Theo thông tin từ website Học viện Dân tộc, tầm nhìn đến năm 2030, Học viện Dân tộc là cơ sở giáo dục đại học trọng điểm của Việt Nam về nghiên cứu chiến lược, chính sách dân tộc, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác dân tộc trong nước và quốc tế. Chia sẻ về lộ trình phát triển cũng như sự chuẩn bị để đạt mục tiêu này, Thạc sĩ Hà Quang Khuê cho biết, Học viện Dân tộc đã tham mưu cho lãnh đạo Ủy ban Dân tộc ban hành các văn bản nhằm thực hiện chiến lược phát triển cụ thể cho từng giai đoạn.

Giai đoạn từ năm 2021-2025, Học viện Dân tộc tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng, các trang thiết bị phục vụ cho công tác đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu phải tương xứng; xây dựng tổ chức bộ máy đủ mạnh, đáp ứng khả năng thực hiện nhiệm vụ; công tác đào tạo, bồi dưỡng của Học viện Dân tộc thực hiện theo các chủ trương, chính sách của Đảng với các chỉ tiêu cụ thể về hoạt động đào tạo; hoạt động bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức cho hệ thống cơ quan công tác dân tộc, bồi dưỡng kiến thức dân tộc và dạy tiếng dân tộc thiểu số thuộc nhóm đối tượng 3 và 4; hoạt động nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế.

Giai đoạn 2026-2030, Học viện Dân tộc chuyển dần sang tập trung thực hiện chức năng đào tạo trình độ đại học; bồi dưỡng kiến thức công tác dân tộc; nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế gắn với lộ trình tự chủ.

Về cơ sở hạ tầng, trang thiết bị và tài chính phục vụ cho công tác đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu, thầy Khuê thông tin: Giai đoạn 2021-2025, dự án xây dựng Học viện Dân tộc tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam hoàn thành khoảng 12,5% quy mô đầu tư. Học viện thuê diện tích phục vụ hoạt động chuyên môn khoảng 10.000m2. Giai đoạn 2026-2030, dự án xây dựng Học viện tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam thực hiện theo tiến độ và hoàn thành. Học viện giảm dần diện tích thuê và chuyển dần trụ sở làm việc về khu vực dự án bàn giao.

Học viện chú trọng xây dựng kế hoạch trung hạn và hằng năm đầu tư cơ sở vật chất đáp ứng nhu cầu nghiên cứu, bồi dưỡng, đào tạo. Xây dựng dự án chuyển đổi số theo hướng hiện đại; dự án đầu tư hệ thống bồi dưỡng, đào tạo trực tuyến; dự án xây dựng thư viện số phục vụ công tác dân tộc.

Hiện, ngân sách nhà nước đảm bảo nguồn lực tài chính thực hiện chiến lược; song song với đó Học viện cũng đa dạng hóa và tăng nguồn thu từ các hoạt động dịch vụ đào tạo, bồi dưỡng và nghiên cứu khoa học của Học viện và các đơn vị sự nghiệp để thực hiện lộ trình chuyển đổi loại hình đơn vị sự nghiệp tự chủ đối với cơ sở giáo dục đại học công lập theo quy định".

Học viện Dân tộc cũng xây dựng phương án kiện toàn bộ máy tổ chức theo hướng tự chủ. Xây dựng khung năng lực và sắp xếp đội ngũ cán bộ theo đề án vị trí việc làm phù hợp với nhu cầu phát triển đào tạo, bồi dưỡng và nghiên cứu khoa học. Đảm bảo số lượng viên chức, giảng viên và hợp đồng lao động đáp ứng đủ tiêu chí đội ngũ để mở các ngành đào tạo và hoạt động bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học.

Về loại hình hoạt động, theo thầy Khuê, Học viện xây dựng đề án tự chủ theo lộ trình chuyển dần hình thức hoạt động từ đơn vị được ngân sách nhà nước đảm bảo toàn bộ chi thường xuyên sang đơn vị tự đảm bảo một phần chi thường xuyên.

Thu hút tuyển sinh từ nhiều nguồn khác nhau

Về nhiệm vụ đào tạo trong thời gian tới, thầy Khuê cho biết, Học viện tiếp tục xây dựng kế hoạch trung hạn và hàng năm. Dự báo nhu cầu, phát triển xác định quy mô và phương thức tuyển sinh phù hợp với nguồn lực để đảm bảo nâng cao chất lượng đào tạo theo chuẩn đầu ra đáp ứng yêu cầu phát triển của vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Xây dựng phương án thu hút nguồn tuyển sinh đại học từ các các trường dự bị đại học và Trường phổ thông Vùng cao Việt Bắc, trường phổ thông dân tộc nội trú, học sinh cử tuyển từ các địa phương; thu hút nguồn tuyển sinh sau đại học từ cán bộ trong quy hoạch phát triển nguồn nhân lực của các địa phương vùng dân tộc thiểu số.

GDVN_dt.png

Học viện cũng xây dựng các đề án mở ngành đào tạo trình độ đại học và sau đại học đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Tổ chức liên kết đào tạo trình độ đại học trong nước và quốc tế, đào tạo văn bằng 2 và dạy nghề cho vùng dân tộc thiểu số. Xây dựng dự án hợp tác đào tạo với các doanh nghiệp trong nước và quốc tế tạo điều kiện cho sinh viên thực hành, mở rộng cơ hội việc làm sau khi tốt nghiệp.

Đa dạng hóa các loại hình và phương thức đào tạo nhằm đáp ứng nhu cầu về điều kiện học tập khác nhau của người học tại vùng dân tộc và miền núi. Học viện Dân tộc gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học và phục vụ vùng dân tộc và miền núi. Xác định nhu cầu vùng dân tộc và miền núi về ngành nghề đào tạo, yêu cầu chất lượng người tốt nghiệp, lấy ý kiến phản hồi về nội dung và phương pháp đào tạo.

Đặc biệt, Học viện xây dựng đội ngũ giảng viên đảm bảo về số lượng và chất lượng, đáp ứng mục tiêu đào tạo của chiến lược theo từng giai đoạn. Xây dựng kế hoạch đảm bảo chất lượng giáo dục, tổ chức kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục năm 2026, kiểm định chất lượng chương trình đào tạo 2 năm một lần.

Trong giai đoạn tới, Học viện Dân tộc tiếp tục thực hiện hoạt động bồi dưỡng cán bộ theo các đề án. Xây dựng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên từ Trung ương đến địa phương cho việc giảng dạy kiến thức công tác dân tộc đảm bảo về số lượng và chất lượng, đáp ứng yêu cầu về mục tiêu của chiến lược. Xây dựng cơ chế chính sách đặc thù thu hút giảng viên, báo cáo viên tham gia công tác bồi dưỡng kiến thức dân tộc và dạy tiếng dân tộc thiểu số. Huy động các nhà khoa học, nhà quản lý từ trung ương đến địa phương tham gia biên soạn tài liệu bồi dưỡng kiến thức công tác dân tộc và dạy tiếng dân tộc thiểu số cho nhóm đối tượng 3 và 4. Thường xuyên bồi dưỡng nâng cao kiến thức dân tộc cho đội ngũ giảng viên, báo cáo viên, giảng viên thỉnh giảng tham gia công tác bồi dưỡng.

Song song với đó là phân cấp, giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị sự nghiệp của Học viện tham gia thực hiện công tác bồi dưỡng kiến thức công tác dân tộc. Học viện Dân tộc cũng sẽ chủ trì, phối hợp với các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của các Bộ, ngành và địa phương huy động, sử dụng nguồn nhân lực, cơ sở vật chất của địa phương hợp lý tham gia tổ chức bồi dưỡng kiến thức công tác dân tộc tại địa phương có hiệu quả.

Về nhiệm vụ nghiên cứu và hợp tác quốc tế, thầy Khuê nhấn mạnh: "Học viện Dân tộc chủ trì nghiên cứu các đề tài, dự án cấp quốc gia, cấp bộ và tương tương liên quan đến lĩnh vực công tác dân tộc cung cấp cơ sở lý luận khoa học và thực tiễn tham mưu cho Ủy ban Dân tộc xây dựng đề án, chính sách dân tộc và xây dựng chiến lược công tác dân tộc; phục vụ công tác bồi dưỡng và đào tạo của Học viện Dân tộc; ứng dụng, triển khai các kết quả nghiên cứu về tiến bộ kỹ thuật vào vùng dân tộc và miền núi góp phần phát triển kinh tế xã hội và giảm nghèo bền vững vùng dân tộc và miền núi.

Xây dựng chương trình khoa học và công nghệ cấp quốc gia về dân tộc thiểu số và chính sách dân tộc giai đoạn 2021 – 2030. Xây dựng một số nhóm nghiên cứu mạnh liên ngành; thu hút các chuyên gia đầu ngành trong nước và quốc tế đến làm việc tại Học viện Dân tộc đáp ứng mục tiêu của Chiến lược đề ra. Xây dựng mô hình hợp tác nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ giữa Học viện với doanh nghiệp, địa phương.

Triển khai các dự án khai thác có hiệu quả cơ sở dữ liệu khoa học, học liệu phục vụ công tác nghiên cứu khoa học, chiến lược, chính sách dân tộc, bồi dưỡng và đào tạo. Hợp tác quốc tế với các trường đại học có uy tín trong khu vực và quốc tế, các tổ chức quốc tế trong các hoạt động nghiên cứu, tư vấn, phản biện chính sách; đào tạo và bồi dưỡng của Học viện".

Cạnh tranh mạnh mẽ giữa các cơ sở đào tạo khiến công tác tuyển sinh khó khăn

Chia sẻ những thuận lợi trong công tác tuyển sinh và đào tạo tại Học viện Dân tộc, Thạc sĩ Hà Quang Khuê cho hay: "Những đổi mới trong quy chế tuyển sinh và hệ thống công nghệ đã mang lại nhiều kết quả tích cực. Các cơ sở đào tạo được cạnh tranh bình đẳng và minh bạch để tuyển sinh. Tỉ lệ thí sinh ảo giảm mạnh, số lượng thí sinh tuyển được số lượng sát hơn với chỉ tiêu đã công bố.

Bên cạnh đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã có dữ liệu đầy đủ, kịp thời và tin cậy về tuyển sinh của tất cả cơ sở đào tạo phục vụ công tác tuyển sinh. Công tác tuyển sinh luôn được sự quan tâm của Đảng ủy và Ban Giám đốc Học viện, xem đây là khâu quan trọng trong hoạt động. Do đó, hàng năm Học viện đều có kế hoạch tuyển sinh cụ thể, trong đó chú ý đến việc quảng bá đến các trường phổ thông trung học, các trung tâm giáo dục thường xuyên và các cơ quan trong hệ thống cơ quan làm công tác dân tộc".

GDVN_SV.png

Bên cạnh những điều kiện thuận lợi, thầy Khuê cũng chỉ ra một số khó khăn trong công tác tuyển sinh.

Thứ nhất, Học viện Dân tộc là đơn vị mới được thành lập nên chưa có đủ thời gian gây dựng được đủ uy tín, thương hiệu. Hơn thế nữa, sự cạnh tranh giữa các cơ sở đào tạo trong tuyển sinh ngày càng mạnh mẽ;

Thứ hai, trong bối cảnh kinh tế - xã hội thay đổi, nhất là của thị trường lao động cùng sự khác biệt trong quan niệm, nhu cầu của giới trẻ ảnh hưởng tới xu hướng chọn trường và chọn ngành của thí sinh dẫn đến công tác tuyển sinh gặp nhiều khó khăn.

Thứ ba, điều kiện kinh tế của nhiều gia đình, nhất là ở các vùng sâu vùng xa, vùng có điều kiện khó khăn làm hạn chế khả năng tiếp cận giáo dục đại học của một bộ phận học sinh.

Thứ tư, do sự thay đổi về cơ chế chính sách, các trường đại học được thành lập nhiều, điểm chuẩn đầu vào đại học thấp vì vậy số lượng thí sinh có nguyện vọng dự thi vào các trường cũng bị ảnh hưởng.

Thứ năm, nguồn lực thực hiện công tác tuyển sinh còn hạn chế, Học viện chưa có đội ngũ cán bộ tuyển sinh chuyên trách và kinh phí đầu tư cho công tác tuyển sinh thấp. Hiện tại phần lớn cán bộ, viên chức, người lao động chưa thực sự quan tâm hỗ trợ công tác tuyển sinh, xem công tác tuyển sinh là nhiệm vụ của phòng Đào tạo.

Thứ sáu, điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học của Học viện còn hạn chế nên phần nào ảnh hưởng đến công tác tuyển sinh.

50% cán bộ, công chức, viên chức thông thạo 1 ngoại ngữ

Mục tiêu hoạt động quốc tế giai đoạn 2025 - 2030 của Học viện Dân tộc là ít nhất 20% cán bộ, công chức, viên chức trong Học viện thông thạo 1 ngoại ngữ, 5% sinh viên được đào tạo ở nước ngoài, 5% công chức, viên chức được cử đi đào tạo nghiên cứu sinh nước ngoài. Có ít nhất 3 chương trình đào tạo liên kết với nước ngoài. Có ít nhất 15% giảng viên/nghiên cứu viên của Học viện tham gia các chương trình, dự án hợp tác quốc tế.

Theo thông tin từ thầy Khuê, đến nay Học viện Dân tộc đã đạt trên 50% cán bộ, công chức, viên chức thông thạo 1 ngoại ngữ (chỉ tiêu đặt ra là 20%). Học viện cũng cử 4 cán bộ đi học sau đại học ở nước ngoài.

"Học viện đang tham mưu xây dựng đề án đặc thù “Hỗ trợ hợp tác đào tạo với các doanh nghiệp trong nước và quốc tế nhằm tạo điều kiện cho sinh viên vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi thực hành và tìm kiếm cơ hội việc làm sau khi tốt nghiệp” trình Thủ tướng Chính phủ, nếu đề án được phê duyệt, đây cũng là cơ sở pháp lý xây dựng kế hoạch và lộ trình đào tạo công chức, viên chức và hợp tác đào tạo liên kết với nước ngoài của Học viện theo mục tiêu đặt ra", thầy Khuê chia sẻ thêm.

Về mục tiêu nguồn lực tài chính, website Học viện nêu rõ: Đến năm 2025 có ít nhất 5% nguồn thu từ sự nghiệp khoa học, đào tạo, bồi dưỡng, 95% nguồn thu từ ngân sách nhà nước cấp. Đến năm 2030 có ít nhất 10% nguồn thu sự nghiệp từ hoạt động khoa học, bồi dưỡng và đào tạo, 80-90% từ ngân sách nhà nước cấp.

Về nội dung này, Thạc sĩ Hà Quang Khuê nhấn mạnh: "Học viện Dân tộc được thành lập theo Quyết định số 1562/QĐ-TTg ngày 8/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc tổ chức lại Viện Dân tộc và Trường Cán bộ Dân tộc thành Học viện Dân tộc có chức năng nghiên cứu về các dân tộc, chiến lược, chính sách dân tộc (không thực hiện nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng nên không có chuyển giao công nghệ).

Kể từ khi thành lập đến nay, Học viện đã có những nghiên cứu khoa học cấp nhà nước nổi bật như: Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng chương trình bồi dưỡng kiến thức công tác dân tộc cho cán bộ, công chức, viên chức đến năm 2030; Nghiên cứu ảnh hưởng của phong tục tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số khu vực miền núi phía Bắc đến hiệu quả xây dựng nông thôn mới; Hệ thống hóa và đánh giá các nghiên cứu về chính sách dân tộc của Việt Nam từ năm 1986 đến nay; Hệ thống hóa, đánh giá các nghiên cứu về dân tộc và công tác dân tộc ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay.

Hiện nay Học viện đang triển khai đề tài cấp nhà nước là: Nghiên cứu đề xuất giải pháp lồng ghép các chương trình, chính sách để thực hiện hiệu quả chương trình nông thôn mới ở địa bàn khó khăn do Tiến sĩ Nguyễn Lâm Thành - Phó Chủ tịch Hội đồng dân tộc của Quốc hội làm chủ nhiệm đề tài".

Phó viện trưởng Viện trưởng phụ trách Viện Chiến lược và Chính sách dân tộc, Học viện Dân tộc cũng nêu lên một số kiến nghị về các chính sách hỗ trợ đào tạo, thu hút người học.

Theo thầy Khuê: "Cần tiếp tục nghiên cứu để ban hành chính sách thu hút nhân tài, giải quyết việc làm tại địa phương cho sinh viên tốt nghiệp đại học loại khá, giỏi là người dân tộc thiểu số. Ngoài ra, cần có chính sách hỗ trợ sinh viên vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi thực hành và tìm kiếm cơ hội việc làm sau khi tốt nghiệp. Tiếp tục thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số".

Thi Thi