LTS: Quyền im lặng của nghi can đang được bàn luận tại quốc hội, đặc biệt là có các quan ngại rằng im lặng của nghi can có thể làm ảnh hưởng đến hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật cho nên không được luật hóa.
Về vấn đề này, Tòa soạn trân trọng giới thiệu bài viết của tác giả Phạm Mạnh Hà, một người hành nghề luật. Tác giả phân tích dựa trên cách hiểu được xem là chuẩn xác nhất và không làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bên nào liên quan tới quyền im lặng.
Theo chủ trương sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự nước ta, nhiều vấn đề đòi hỏi phải được sửa đổi cho phù hợp với quy ước của quốc tế. Gây tranh cãi nhiều nhất là “quyền im lặng” của nghi can, nghi phạm.
Đứng về phía ngành Công an, thì tỏ ý lo ngại về việc "quyền im lặng" của nghi can sẽ gây thách thức phá án khi mà nghi can là đầu mối quan trọng nhất của vụ án nhưng lại cứ "ngậm tăm" không chịu khai báo thực về hành vi của mình.
Nhưng cũng phải ghi nhận rằng "quyền im lặng" xuất phát từ tình hình thực tiễn là đã có nhiều vụ bức cung dùng nhục hình đối với nghi can gây nên những án oan chấn động dư luận. Chính vì vậy "quyền im lặng" được đặt ra để làm bức tường ngăn cản việc bức cung dùng nhục hình tấn công tới nghi phạm.
Một bài báo nói tới vấn đề Quyền im lặng, nêu lên phát biểu, ý kiến của Chủ tịch quốc hội Nguyễn Sinh Hùng |
Tuy nhiên dù không có bằng chứng về việc bức cung dùng nhục hình đi chăng nữa thì cũng cần phải hiểu rằng bản chất của luật pháp là công bằng, có nghĩa là phải khiến mọi người "tâm phục khẩu phục" mà không thể chối cãi được, cho nên "quyền im lặng" đã được quốc tế hóa và là xu hướng tất yếu của xã hội loài người tiến bộ.
Ở đây cần phải nhận thức rõ là, thế giới đã công nhận con người sinh ra đã có những quyền tự nhiên để sinh tồn, đó là những quyền đảm bảo cho bản năng bẩm sinh của con người để duy trì sự sống cho bản thân, như đói phải được ăn, khát phải được uống vậy.
(GDVN) - Ông Chung cho rằng, chỉ nên quy định theo hướng người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự do trình bày lời khai, không bị ép buộc đưa ra lời khai... |
Trong những bản năng đó có bản năng tự bảo vệ mình chống lại những bất lợi từ môi trường xung quanh, chính vì vậy mà người ta có quyền không bị buộc phải chống lại chính mình. Từ đó đã dẫn đến sự ra đời của "quyền im lặng" là vì thế.
Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 mà Việt Nam ký kết gia nhập vào ngày 24/9/1982, trong bản Công ước đó quy định tại điểm g, khoản 3, Điều 14 rằng: Trong quá trình xét xử về một tội hình sự, mọi người đều có quyền được hưởng một cách đầy đủ và hoàn toàn bình đẳng những bảo đảm tối thiểu sau đây:“Không bị buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận là mình có tội”. Điều này cũng chính là "quyền im lặng" của nghi can.
Cũng cần phải chú ý là Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành của Việt Nam tại điểm c khoản 2 điều 48, 49 đã có quy định: người bị tạm giữ, bị can có "quyền trình bày lời khai", tức là việc trình bày lời khai hay không là tùy ý người bị tạm giữ, bị can, vì đó là "quyền" chứ không phải nghĩa vụ. Đây chính là "quyền im lặng" của nghi can đã được luật quy định.
Tuy nhiên trên thực tế do trách nhiệm giải thích và còn do nhận thức của cả cán bộ điều tra và nghi can mà "quyền trình bày lời khai" của nghi can đã bị hiểu méo mó thành "trách nhiệm phải trình bày lời khai" của nghi can.
(GDVN) - Nếu “im lặng” không phải là quyền của con người thì nó là quyền của ai, của cái gì? Phải chăng nó là quyền của cây cối của những vật vô tri như chiếc chìa khóa |
Và đáng chú ý nữa là tại khoản 2 điều 72 Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành có quy định: "Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được dùng làm chứng cứ, nếu phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án. Không dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tội".
Điều này có nghĩa là luôn luôn phải có chứng cứ khác ngoài lời nhận tội của bị can, bị cáo thì mới kết tội được. Tức là lời khai của nghi can không đương nhiên được coi là chứng cứ, mà nếu khớp với các chứng cứ khác thì mới có thể được dùng làm chứng cứ để kết tội.
Quy định như vậy có bản chất là để xác định ai là thủ phạm, chỉ nghi can nào có lời khai khớp với các chứng cứ khác thì mới được coi là thủ phạm của vụ án.
Tuy nhiên trên thực tế chính vì quy định như vậy mà cán bộ điều tra đã bức cung dùng nhục hình ép nghi can phải khai khớp với các chứng cứ khác để cán bộ điều tra "phá án" thành công.
Đã cho thấy lời khai có bản chất là tùy ý, cho nên không phải là loại chứng cứ chắc chắn, đáng tin cậy để kết tội, chính vì vậy mà luật hiện hành đã quy định dù nghi can đã khai nhận tội rồi thì vẫn phải có chứng cứ khác nữa mới kết tội được.
Điều này đã dẫn đến lập luận xác đáng rằng: vì lời khai là tùy ý cho nên không có độ tin cậy cao, chính vì vậy không thể coi lời khai là chứng cứ để kết luận vụ án như điểm b khoản 2 điều 64 Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành, mà chỉ nên coi lời khai là nguồn cung cấp thông tin để xác định các chứng cứ khác của vụ án, các chứng cứ khác mới là căn cứ để kết tội.
Quy định mới như vậy để tránh việc cán bộ điều tra ép nghi can phải khai cho khớp với các chứng cứ khác để kết tội. Và quy định như vậy cũng để khớp với "quyền im lặng" của nghi can đã được Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành quy định tại điểm c khoản 2 điều 48, 49.
Nghi can có "quyền im lặng" là một chuyện, thế nhưng bên cạnh đó cơ quan bảo vệ pháp luật lại có "quyền kết tội không phụ thuộc vào lời khai của nghi can" lại là một chuyện khác.
Đây chính là sự cân bằng giữa quyền của nghi can và quyền của cơ quan bảo vệ pháp luật, để đảm bảo hai bên không làm ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của nhau.
Xét về lí luận, thì cơ quan bảo vệ pháp luật hoàn toàn có quyền kết tội dựa trên đầy đủ các chứng cứ chứng minh tội phạm mà không cần đến lời nhận tội của nghi can. Thế cho nên nghi can có "quyền im lặng" cũng không gây ảnh hưởng đến việc kết tội của cơ quan bảo vệ pháp luật.
Dù vậy thì vẫn có quy định là nghi can có quyền khai báo tự thú để được hưởng khoan hồng của pháp luật, nhằm khuyến khích nghi can thành khẩn khai báo giúp cho quá trình phá án được nhanh hơn.
Như vậy tới đây Bộ luật Tố tụng hình sự cần thể hiện rõ hơn như trên, để đảm bảo luật pháp được mọi người "tâm phục khẩu phục".