Số lượng di tích ít, Đắk Nông gặp khó trong biên soạn Tài liệu GD địa phương

15/02/2023 06:42
Khánh An
0:00 / 0:00
0:00
GDVN-Đắk Nông gặp nhiều khó khăn về KT-XH, cơ sở hạ tầng còn thấp kém, ngân sách đầu tư cho giáo dục dù được quan tâm nhưng vẫn hạn chế. 

Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Nông đã có báo cáo gửi Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội và Bộ Giáo dục và Đào tạo về kết quả thực hiện Nghị quyết số 88/2014/QH13 và Nghị quyết số 51/2017/QH14 của Quốc hội về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông trên địa bàn.

Trong báo cáo này, Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Nông cho biết, sau hơn 8 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 88/2014/QH13 và Nghị quyết số 51/2017/QH14, ngành Giáo dục tỉnh tiếp tục phát triển ổn định.

Ảnh minh họa (Nguồn: Báo Dân tộc và phát triển).

Ảnh minh họa (Nguồn: Báo Dân tộc và phát triển).

Theo đó, công tác quản lý Nhà nước về giáo dục cũng được tăng cường và đã có những bước chuyển biến tích cực theo hướng chuẩn hóa đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục; thực hiện đổi mới cơ chế quản lý tài chính của ngành; tăng cường phân cấp quản lý giáo dục; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm của các cơ sở giáo dục.

Việc đầu tư kinh phí cho giáo dục được ưu tiên, cơ sở vật chất nhà trường từng bước được cải thiện, nâng cấp theo hướng chuẩn hóa. Việc chuẩn bị các điều kiện về cơ sở vật chất được quan tâm đầu tư theo các chuẩn định để bảo đảm điều kiện triển khai chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới.

Công tác lựa chọn sách giáo khoa, biên soạn tài liệu giáo dục địa phương thực hiện kịp thời và đúng theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo; công tác giáo dục hướng nghiệp, định hướng phân luồng có sự tiến triển.

Đắk Nông đã cụ thể hóa Nghị quyết số 88/2014/QH13, Nghị quyết số 51/2017/QH14 của Quốc hội và các văn bản hướng dẫn của Trung ương về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông thành các Nghị quyết, các kế hoạch, chương trình hành động cụ thể, đồng thời, phân công rõ trách nhiệm của các Sở, Ban, ngành và chính quyền địa phương, các đơn vị có liên quan trong việc chủ trì, phối hợp thực hiện các nhiệm vụ để hoàn thành các mục tiêu của Chương trình đã đề ra.

Không những vậy, đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên của tỉnh đã chủ động, nỗ lực triển khai thực hiện các nhiệm vụ đổi mới chương trình giáo dục phổ thông, sách giáo khoa mới đảm bảo theo các yêu cầu của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Thiếu giáo viên, thiếu cơ sở vật chất, chất lượng giáo dục giữa các vùng còn nhiều chênh lệch

Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, ngành giáo dục tỉnh Đắk Nông vẫn còn một số hạn chế cần được khắc phục kịp thời.

Một bộ phận cán bộ quản lý, giáo viên chưa theo kịp với yêu cầu của chương trình, chưa thật sự chủ động trong việc nghiên cứu, tiếp cận với Chương trình giáo dục phổ thông 2018, còn lúng túng trong việc xây dựng kế hoạch giáo dục nhà trường, kế hoạch giáo dục môn học, chưa thực sự tích cực trong việc sắp xếp lại nội dung, xây dựng kế hoạch giảng dạy phù hợp với đối tượng học sinh.

Chất lượng giáo dục tuy có nhiều chuyển biến tích cực nhưng vẫn còn chậm nên chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của địa phương, nhất là ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Mức độ chênh lệch về chất lượng giáo dục giữa các vùng, giữa các loại hình trường vẫn còn khá lớn, việc huy động học sinh ra lớp và duy trì tỷ lệ học sinh đi học chuyên cần vẫn còn nhiều khó khăn; kết quả phân luồng học sinh sau trung học cơ sở vào học nghề còn thấp.

Tình trạng quá tải học sinh ở một số trường tiểu học, trung học cơ sở tại trung tâm các huyện, thành phố ảnh hưởng đến công tác kiểm định chất lượng giáo dục và xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia.

Cơ sở vật chất trang thiết bị vừa thiếu, vừa không đồng bộ; thư viện, phòng thí nghiệm, phòng học bộ môn và các phương tiện dạy học chưa đảm bảo về số lượng, chủng loại và chất lượng so với yêu cầu đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục; chính sách huy động và phân bổ nguồn lực tài chính cho giáo dục chưa thực sự hợp lý, hiệu quả sử dụng nguồn lực chưa cao.

Số lượng người làm việc trong các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông công lập trên địa bàn tỉnh Đắk Nông đang thiếu nhiều so với định mức, nhất là trong những năm học tới, việc thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông mới ở nhiều cấp học, bậc học, đòi hỏi tăng thêm giáo viên.

Mặt khác, vẫn còn tình trạng thừa, thiếu giáo viên cục bộ ở một số môn học, xảy ra ở một số trường, một số địa phương (đặc biệt là giáo viên dạy môn Tiếng Anh, Tin học); việc thiếu giáo viên làm ảnh hưởng đến việc phân công giảng dạy, hoạt động giáo dục, bố trí công tác và sắp xếp cử đi đào tạo nâng trình độ chuẩn theo quy định.

Việc biên soạn tài liệu giáo dục địa phương còn gặp khó khăn do tài liệu tham khảo, tư liệu, hình ảnh còn ít, chưa được phong phú; số lượng các di tích trên địa bàn tỉnh ít, không có nhiều sự lựa chọn để đưa vào tài liệu giáo dục địa phương; đội ngũ giáo viên trên địa bàn tỉnh một phần từ các tỉnh thành khác về giảng dạy nên chưa am hiểu cụ thể về văn hóa, lịch sử, truyền thống của địa phương.

Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế này do số ít cán bộ quản lý chưa năng động, sáng tạo, chưa tự giác học tập, nghiên cứu, chậm đổi mới trong công tác quản lý; một số giáo viên chưa bắt kịp yêu cầu đổi mới trong phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá.

Đời sống của nhân dân, nhà giáo công tác ở vùng sâu, vùng xa còn gặp nhiều khó khăn nên ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục cũng như huy động các nguồn lực phục vụ cho công tác xã hội hóa giáo dục.

Ngân sách đầu tư để phát triển cơ sở vật chất trường lớp, trang thiết bị phục vụ dạy và học, nhất là công tác xây dựng trường chuẩn còn hạn chế, dàn trải.

Số lượng người làm việc trong các cơ sở giáo dục công lập được cấp có thẩm quyền giao chưa bảo đảm theo định mức quy định; việc thực hiện điều chuyển giáo viên ở các trường thừa ở một số môn học đến các trường còn thiếu chưa được thực hiện triệt để.

Ngoài ra, trong những năm gần đây, tốc độ gia tăng dân số của tỉnh Đắk Nông đã làm tăng quy mô số lượng học sinh gây ra áp lực không nhỏ cho ngành giáo dục nhằm đảm bảo chất lượng trong việc dạy và học.

Đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên làm công tác kiêm nhiệm hướng nghiệp, tư vấn nghề nghiệp chưa được đào tạo chuyên sâu, cũng như chưa dự báo được nhu cầu sử dụng lao động ở các ngành nghề, từ đó đã ảnh hưởng đến việc phân luồng học sinh.

Bên cạnh đó, một số trường chưa quan tâm đến công tác giáo dục hướng nghiệp, chủ yếu tập trung đến việc hoàn thành nội dung, chương trình giáo dục, thiếu sự phối hợp chặt chẽ với các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp trên địa bàn để thực hiện nhiệm vụ phân luồng học sinh.

Để khắc phục nhiều tồn tại, khó khăn và tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng khi thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã đưa ra một số kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền như sau:

Thứ nhất, đối với nhóm giải pháp xây dựng hoàn thiện chính sách, pháp luật, cần:

Sớm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật và hướng dẫn thực hiện thống nhất về vị trí việc làm, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp và định mức số lượng người làm việc trong các cơ sở giáo dục; bổ nhiệm và xếp lương viên chức theo đúng trình độ đào tạo, chuẩn chức danh nghề nghiệp cho đội ngũ viên chức giáo dục và đào tạo.

Tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền để nâng cao nhận thức về vị trí vai trò của giáo dục đối với phát triển kinh tế - xã hội. Thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương.

Đổi mới, hoàn thiện cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan quản lý giáo dục các cấp và cơ chế quản trị giáo dục của các nhà trường nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của giáo dục.

Thứ hai, đối với nhóm giải pháp về quản lý Nhà nước và triển khai thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018, cần:

Xây dựng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục đủ về số lượng, chuẩn hóa về trình độ đào tạo, có năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, từng bước đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục, thực hiện tốt Chương trình giáo dục phổ thông 2018 và Luật Giáo dục 2019.

Quan tâm giáo dục đạo đức, nhân cách, lối sống, kỹ năng sống, pháp luật, ý thức công dân; kết hợp hài hòa dạy chữ, dạy người và dạy nghề; xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh.

Đổi mới phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục và đào tạo; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều; tăng cường kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức, kỹ năng vào giải quyết các vấn đề thực tiễn; đa dạng hóa các hình thức học tập, chú trọng các hoạt động trải nghiệm sáng tạo, nghiên cứu khoa học của học sinh. Đẩy mạnh công tác kiểm định chất lượng giáo dục.

Xây dựng cơ chế, chính sách rõ ràng trong thực hiện đẩy mạnh phân cấp quản lý, giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị sự nghiệp, các cơ sở giáo dục theo Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập.

Thực hiện giám sát các chủ thể trong nhà trường và xã hội; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra của cơ quan quản lý các cấp; bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch.

Thứ ba, đối với nhóm giải pháp về đầu tư nguồn lực cho công tác bảo đảm chất lượng giáo dục phổ thông, cần:

Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy học cho giáo dục và đào tạo nhằm bảo đảm thực hiện đổi mới chương trình, sách giáo khoa theo đúng lộ trình đã đề ra. Ưu tiên đầu tư nguồn lực cho các địa phương còn khó khăn về kinh tế, các địa phương thường xuyên bị ảnh hưởng bởi thiên tai và vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số.

Đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục, khuyến khích phát triển các loại hình trường ngoài công lập đáp ứng nhu cầu xã hội, tiến tới bình đẳng về quyền lợi cho người học ở trường công lập và ngoài công lập.

Ưu tiên bố trí đủ biên chế, số lượng người làm việc phù hợp với quy mô phát triển của địa phương nhằm khắc phục tình trạng thiếu giáo viên hiện nay.

Xây dựng, điều chỉnh, bổ sung các chính sách về hỗ trợ cho học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn; khuyến khích đào tạo, bồi dưỡng, thu hút và sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho phát triển giáo dục và đào tạo.

Không chỉ đưa ra các giải pháp thiết thực để khắc phục những vướng mắc còn tồn tại, Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Nông cũng đưa ra nhiều đề xuất, kiến nghị với Chính phủ và Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Đối với Chính phủ:

Năm học 2022-2023 tỉnh Đắk Nông được giao 115 biên chế giáo viên, tuy nhiên đối chiếu với thực tế đang thiếu giáo viên hiện nay của tỉnh thì chưa đáp ứng được số lượng theo yêu cầu.

Vì vậy, trong các năm học tiếp theo, để đáp ứng được việc thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018 và quy mô gia tăng số học sinh do tăng dân số của tỉnh Đắk Nông, Sở Giáo dục Đắk Nông đề nghị Chính phủ xem xét, giao bổ sung số lượng người làm việc cho tỉnh Đắk Nông trong năm 2023 trong số biên chế đã được Bộ Chính trị giao giai đoạn 2022-2026.

Từ đó để tỉnh Đắk Nông tuyển dụng giáo viên, nhân viên trong các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông công lập là 966 người, trong đó cấp mầm non 217 người; cấp tiểu học 387 người; cấp trung học cơ sở 245 người; cấp trung học phổ thông 117 người.

Đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo:

Đắk Nông là tỉnh còn nhiều khó khăn, do đó, ngân sách của tỉnh đầu tư xây dựng, sửa chữa cơ sở vật chất và mua sắm trang thiết bị cho các cơ sở giáo dục còn nhiều hạn chế (số lượng học sinh tăng nhanh hàng năm và trang thiết bị vừa thiếu, vừa không đồng bộ; các thiết bị dạy học được cung cấp chủ yếu từ năm 2010 trở về trước từ nguồn vốn Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn trước).

Để thực hiện hiệu quả Chương trình giáo dục phổ thông 2018, Sở Giáo dục Đắk Nông đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan tham mưu Chính phủ ưu tiên phân bổ kinh phí, trang thiết bị từ các Chương trình mục tiêu quốc gia, dự án,... cho ngành giáo dục tỉnh.

Mặt khác, số lượng lượng người làm việc trong các cơ sở giáo dục tiểu học công lập của tỉnh Đắk Nông nói chung và số lượng giáo viên dạy môn Tiếng Anh, Tin học đang thiếu nhiều so với định mức nên chưa đáp ứng được việc thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018.

Do đó, Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông đã đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Bộ Nội vụ xem xét, không cắt giảm số lượng người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp giáo dục công lập của tỉnh Đắk Nông năm 2022 và các năm tiếp theo để tỉnh cân đối, bố trí giáo viên cho phù hợp, cơ bản đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh trên địa bàn tỉnh.

Hơn nữa, để đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý kiêm nhiệm làm nhiệm vụ tư vấn hướng nghiệp đáp ứng yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ, tỉnh cũng đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục tăng cường tổ chức các lớp tập huấn về hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong trường phổ thông; tiếp tục xây dựng, hoàn thiện cơ chế chính sách khuyến khích học sinh đi học nghề, ưu tiên cho học sinh sau tốt nghiệp tiếp tục học tập tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp.

Khánh An