Cần tháo gỡ “rào cản” pháp lý để tự chủ đại học thực chất, đạt kỳ vọng

28/06/2025 06:38
Thúy Hiền
Theo dõi trên Google News

GDVN - CSGDĐH mong mỏi có thêm những quy định nhằm tháo gỡ vướng mắc, thúc đẩy cơ chế tự chủ hiệu quả, tạo thuận lợi cho việc khai thác và phân bổ nguồn lực.

Trong bối cảnh giáo dục đại học đang chuyển mình mạnh mẽ theo hướng tự chủ và hội nhập quốc tế, các trường đại học ở Việt Nam được kỳ vọng sẽ đóng vai trò then chốt trong việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, thúc đẩy nghiên cứu và đổi mới sáng tạo. Tuy nhiên, bối cảnh hiện nay các cơ sở giáo dục đại học còn đang vướng nhiều rào cản về tài chính, pháp lý và nguồn lực.

Tự chủ đại học còn nhiều rào cản

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Phan Hồng Hải - Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh (IUH) cho biết, hiện nay giáo dục đại học Việt Nam đang đối mặt với thách thức lớn nhất là kỳ vọng và yêu cầu ngày càng cao từ xã hội, Nhà nước, đặc biệt về chất lượng đào tạo, năng lực nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và đóng góp thiết thực cho sự phát triển kinh tế - xã hội.

Trong khi đó, nguồn lực đầu tư cả về tài chính lẫn cơ chế chính sách vẫn còn rất hạn chế và chưa tương xứng với vai trò cũng như sứ mệnh mà các trường đại học đang gánh vác.

Điều này đã và đang tạo ra những áp lực lớn cho các cơ sở giáo dục đại học, đặc biệt trong bối cảnh thực hiện chủ trương tự chủ đại học - một xu hướng tất yếu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và tăng tính cạnh tranh trong hệ thống giáo dục đại học.

a1.jpg
Tiến sĩ Phan Hồng Hải - Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Ảnh: NTCC)

“Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những đơn vị tiên phong được thí điểm thực hiện cơ chế tự chủ. Sau một thời gian triển khai, IUH đã đạt được nhiều kết quả tích cực gồm: quy mô đào tạo tăng, chất lượng giảng dạy và nghiên cứu được nâng lên, cơ sở vật chất từng bước được cải thiện, mối liên kết với doanh nghiệp được đẩy mạnh...

Tuy nhiên, chặng đường thực hiện tự chủ không hề bằng phẳng. Những khó khăn, thách thức vẫn hiện hữu và phần lớn bắt nguồn từ các rào cản về thể chế, chính sách và thủ tục hành chính.

Một trong những vướng mắc lớn nhất hiện nay là vấn đề tài chính. Cơ chế tự chủ đòi hỏi các trường phải năng động trong việc khai thác, sử dụng và phân bổ nguồn lực tài chính, song các quy định hiện hành lại chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho điều đó.

Đặc biệt, thủ tục đầu tư và mua sắm công còn rườm rà, mất nhiều thời gian, khiến các trường gặp khó khi cần đầu tư nhanh để đáp ứng nhu cầu đào tạo, nghiên cứu hay đổi mới thiết bị giảng dạy. Tình trạng này khiến cho tự chủ tài chính vốn là trụ cột quan trọng của tự chủ đại học chưa thực sự phát huy được hiệu quả như kỳ vọng.

Không dừng lại ở đó, các trường đại học còn đang phải loay hoay trong "ma trận" của những quy định pháp lý thiếu đồng bộ. Luật Giáo dục đại học, Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Quản lý và sử dụng tài sản công... mỗi luật có một quy định riêng, đôi khi chồng chéo, gây lúng túng trong quá trình thực thi.

Ví dụ, để triển khai các hoạt động liên doanh, liên kết với doanh nghiệp nhằm tăng nguồn thu ngoài học phí, cơ sở đào tạo lại vướng phải những thủ tục phức tạp, bị giới hạn bởi các quy định về quản lý tài sản công. Việc mua sắm, đầu tư trang thiết bị hiện đại cũng không đơn giản, khi phải trải qua nhiều vòng phê duyệt, xét duyệt khiến cơ hội đôi khi bị bỏ lỡ”, Tiến sĩ Phan Hồng Hải cho hay.

anh-minh-hoa-iuh-1.jpg
Ảnh minh họa: IUH.

Theo Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh, một vấn đề nan giải khác là khó khăn trong việc thu hút và giữ chân nhân lực chất lượng cao, nhất là các chuyên gia đầu ngành, giảng viên có trình độ cao.

Nguyên nhân sâu xa đến từ quy định trong Luật Viên chức chưa thực sự phù hợp với đặc thù và yêu cầu cạnh tranh trong giáo dục đại học hiện đại. Dù các trường đã có nguồn lực tài chính tốt hơn nhờ tự chủ nhưng việc chi trả thu nhập cao cho người lao động vẫn bị ràng buộc bởi các quy định hiện hành, khiến việc xây dựng đội ngũ mạnh gặp nhiều vướng mắc.

Như vậy, có thể thấy rằng, tự chủ đại học không đơn thuần chỉ là việc trao quyền cho các trường, mà cần đi kèm với những cải cách mạnh mẽ về thể chế, chính sách và cơ chế quản lý. Nếu không tháo gỡ được những rào cản pháp lý đang tồn tại, tự chủ sẽ chỉ nằm trên danh nghĩa, chưa thể tạo ra sức bật đủ lớn để các trường đại học công lập phát triển bền vững và cạnh tranh được trong môi trường giáo dục ngày càng mở và hội nhập.

Cùng trao đổi về vấn đề này, Tiến sĩ Nguyễn Tiến Dũng, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Hà Nội (HANU) cho biết, giáo dục đại học hiện nay đang phải đối mặt với thách thức do kỳ vọng và yêu cầu cao nhưng đầu tư còn rất khiêm tốn.

Khó khăn đầu tiên là về nguồn nhân lực chất lượng cao với đội ngũ giảng viên có trình độ tiến sĩ, chức danh phó giáo sư, giáo sư. Hiện tượng “chảy máu chất xám” do cạnh tranh giữa các cơ sở giáo dục đại học tư thục và công lập, trong và ngoài nước ngày càng tăng khiến các trường đại học công lập mất đi một số lượng cán bộ, giảng viên, chuyên viên được đào tạo bài bản, có kinh nghiệm và năng lực công tác.

Quy định trả lương theo ngạch bậc bộc lộ nhiều điểm bất cập, gây khó khăn cho việc tuyển dụng, đồng thời khó động viên được người lao động cống hiến hết mình.

Luật Viên chức cũng có một số quy định chưa thuận lợi cho việc tuyển dụng, bổ nhiệm các cá nhân có năng lực, đang làm việc ở môi trường ngoài công lập và muốn chuyển sang làm việc tại trường đại học công lập; việc cho thôi việc một số viên chức không còn đủ năng lực công tác cũng khá phức tạp.

Đồng thời, Luật Lao động năm 2019 và Nghị quyết số 17/2022/UBTVQH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (Quy định về số giờ làm thêm trong 1 năm, trong 1 tháng của người lao động trong bối cảnh phòng, chống dịch Covid-19 và phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội) có những ràng buộc về số giờ làm thêm, không được vượt quá 300 giờ/năm, là một khó khăn đối với một số đơn vị thuộc Trường Đại học Hà Nội vốn có số lượng giảng viên chưa nhiều và khó tuyển dụng nhân sự.

a2.jpg
Tiến sĩ Nguyễn Tiến Dũng, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Hà Nội. (Ảnh: NTCC)

Khó khăn thứ hai là về tài chính và cơ sở vật chất. Các trường đại học tự chủ toàn bộ kinh phí chi đầu tư và chi thường xuyên như HANU không còn được cấp vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Do đó, nhà trường chỉ đủ kinh phí để sửa chữa theo mô hình vừa và nhỏ dạng duy tu, bảo dưỡng các công trình; mua sắm vừa đủ trang thiết bị phục vụ giảng dạy và một số hoạt động khác.

Các chiến lược lớn liên quan đến mở rộng quy mô diện tích, thành lập cơ sở 2 hay xây thêm một tòa nhà để có thêm phòng học, giảng đường cũng rất khó khăn vì không có nguồn vốn.

Ngoài ra, mức học phí theo khung quy định tại Nghị định số 81/2021/NĐ-CP của Chính phủ hiện nay được xem là tương đối phù hợp với kỳ vọng trong việc tăng cường nguồn lực tài chính cho các cơ sở giáo dục đại học, đồng thời phù hợp với lộ trình tiến tới tính đủ chi phí theo cơ chế giá. Tuy nhiên, nếu học phí tăng quá cao nhằm mục tiêu đầu tư xây dựng cơ bản hoặc cải thiện thu nhập cho giảng viên và người lao động, điều này có thể vô tình làm giảm cơ hội tiếp cận giáo dục đại học của những sinh viên có hoàn cảnh khó khăn.

Vì vậy, việc xác định mức thu học phí thực tế được nhà trường cân nhắc kỹ lưỡng, sao cho vừa phù hợp với điều kiện tài chính của người học, vừa đảm bảo tính cạnh tranh, thu hút người học trong bối cảnh tự chủ. Mục tiêu tài chính cần được đặt trong mối tương quan hài hòa với các mục tiêu xã hội và giáo dục, nhằm phát triển bền vững và toàn diện.

Khó khăn thứ ba là về hợp tác quốc tế. Trường Đại học Hà Nội có thế mạnh lớn về hợp tác quốc tế khi có 54 chương trình đào tạo giảng dạy hoàn toàn bằng tiếng nước ngoài và có gần 400 đối tác nước ngoài. Hiện trường đang thực hiện nhiều dự án quốc tế, tổ chức nhiều hội thảo quốc tế nhằm công bố kết quả khoa học, trao đổi học thuật trong mạng lưới các chuyên gia cùng ngành.

Tuy nhiên, có một số văn bản chưa thực sự tạo thuận lợi cho các hoạt động này bởi thủ tục hành chính phức tạp, kéo dài và liên quan tới nhiều đơn vị khác nhau. Ví dụ, Quyết định số 06/2020/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Tổ chức và quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam đã thống nhất chung được quy trình xin phép, cấp phép tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế và góp phần tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước. Theo quy trình này, trường đại học sẽ cần xin phép bộ chủ quản, sau đó là Sở ngoại vụ tỉnh, thành phố. Với một đơn vị có nhiều hội nghị, hội thảo quốc tế như nhà trường thì đây là một thủ tục hành chính khá mất thời gian, chưa khẳng định được sự tự chủ học thuật và trách nhiệm giải trình của các trường.

Bên cạnh đó, việc các trường đại học tiếp nhận viện trợ, tài trợ của nước ngoài cũng cần tuân thủ Nghị định số 80/2020/NĐ-CP về quản lý và sử dụng viện trợ không hoàn lại không thuộc hỗ trợ phát triển chính thức của các cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài dành cho Việt Nam. Thủ tục này cần có sự tham gia của bộ chủ quản, Bộ Tài chính và một số bộ ngành liên quan khác; thời gian phê duyệt khoảng từ 3 đến 4 tháng.

Sau khi được cấp có thẩm quyền cho phép tiếp nhận viện trợ, nhà trường vẫn phải thực hiện thêm thủ tục ghi vốn, do khoản viện trợ được xem là nguồn ngân sách Nhà nước và phải do Kho bạc Nhà nước quản lý. Điều này đồng nghĩa với việc trường phải tuân thủ đầy đủ các quy trình quản lý tài chính như đối với ngân sách công. Thủ tục ghi vốn này không chỉ phức tạp mà còn đòi hỏi sự phối hợp giữa nhiều cơ quan, bao gồm bộ chủ quản và Bộ Tài chính, và thường kéo dài thêm khoảng 3 đến 4 tháng.

Với các dự án tài trợ từ nước ngoài có thời gian thực hiện ngắn, chỉ từ 1 đến 2 năm, khoảng thời gian dành cho thủ tục hành chính như vậy đã chiếm tỷ lệ lớn, ảnh hưởng đáng kể đến tiến độ và hiệu quả triển khai dự án.

Trong trường hợp thực hiện các dự án hợp tác với các trường đại học nước ngoài, việc kéo dài thủ tục ghi vốn và giải ngân khiến các trường đại học Việt Nam thường bị chậm tiến độ so với đối tác quốc tế. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện dự án mà còn có thể làm giảm uy tín của nhà trường trong mắt nhà tài trợ và đối tác nước ngoài, ảnh hưởng đến khả năng hợp tác và tiếp cận các nguồn viện trợ quốc tế trong tương lai.

“Một bất cập khác hiện nay là Nghị định số 80/2020/NĐ-CP chưa quy định cơ chế phân cấp quản lý viện trợ theo mức độ tài chính, kể cả đối với các trường đại học đã thực hiện tự chủ.

Điều này dẫn đến thực tế là dù khoản viện trợ chỉ ở mức 5.000 USD hay lên tới 1 triệu USD thì thủ tục tiếp nhận và ghi vốn vẫn phải thực hiện như nhau, với quy trình phức tạp và mất nhiều thời gian.

Chính sự cứng nhắc này khiến không ít trường ngần ngại tiếp nhận các khoản viện trợ có giá trị nhỏ (chẳng hạn khoảng 20.000 USD), dù trên thực tế, đây lại là nguồn lực quý giá cho những dự án quy mô vừa và nhỏ như cải tiến phương pháp giảng dạy, hỗ trợ sinh viên khởi nghiệp hay nâng cao năng lực tìm kiếm việc làm cho sinh viên.

Nếu có cơ chế linh hoạt hơn, các trường đại học ở Việt Nam có thể tận dụng được nhiều nguồn viện trợ thiết thực, hiệu quả và phù hợp với nhu cầu phát triển của mình”, Tiến sĩ Nguyễn Tiến Dũng cho hay.

a3.jpg
Sinh viên Trường Đại học Hà Nội. Ảnh: NTCC.

Nghiên cứu khoa học là một trong những yếu tố cốt lõi trong tiến trình tự chủ

Khi thực hiện tự chủ, bên cạnh nguồn thu từ học phí thì nguồn thu từ hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ cũng ngày càng đóng vai trò thiết yếu. Không chỉ giúp đa dạng hóa nguồn lực tài chính, hoạt động này còn phản ánh năng lực học thuật, khả năng đổi mới sáng tạo và mức độ gắn kết giữa nhà trường với doanh nghiệp, thị trường và xã hội.

Tuy nhiên, để khai thác hiệu quả nguồn thu từ nghiên cứu, nhiều trường đại học vẫn đang phải đối mặt với nhiều rào cản.

Theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Dũng, nguồn thu tài chính hàng năm của Trường Đại học Hà Nội bao gồm: thu từ ngân sách, thu từ học phí và từ nguồn thu hợp pháp khác.

Tỷ lệ nguồn thu từ các nguồn hợp pháp khác chiếm tỷ lệ/tổng nguồn thu hàng năm tương ứng là 25,59% năm 2020; 24,54% năm 2021; 31,37% năm 2022; 37,67% năm 2023 và 35,4% năm 2024 có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây đã tạo điều kiện góp phần tăng thêm thu nhập và nâng cao đời sống cho cán bộ, giảng viên, người lao động.

Về nguồn thu từ hoạt động khoa học và chuyển giao công nghệ, do đặc thù các ngành đào tạo của nhà trường phần lớn liên quan đến khoa học xã hội và nhân văn nên nguồn thu từ việc ứng dụng các đề tài nghiên cứu hay chuyển giao công nghệ còn rất thấp. Đây cũng là tình hình chung của các trường cũng đào tạo lĩnh vực này.

Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Hà Nội thông tin thêm, hiện nay, nhà trường có một số đề tài nghiên cứu khoa học có sản phẩm ứng dụng như phần mềm dạy học ngoại ngữ trên điện thoại di động, trên nền tảng số và đang hoàn thiện để thương mại hóa trong tương lai.

Để có thể gia tăng nguồn thu khác ngoài học phí, nhà trường đã tích cực triển khai các hoạt động dịch vụ liên quan đến thế mạnh về ngoại ngữ như: tổ chức các kỳ thi đánh giá năng lực ngoại ngữ của nhiều thứ tiếng như tiếng Anh, tiếng Trung Quốc, tiếng Nhật Bản... hoặc tiếp nhận tài trợ của một số đại sứ quán, doanh nghiệp.

Còn tại Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh, Hiệu trưởng nhà trường cho biết, hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ đã có bước phát triển mạnh mẽ, góp phần đưa IUH trở thành một trong những cơ sở giáo dục đại học tự chủ vững mạnh. Thành quả này có được nhờ chính sách đầu tư bài bản vào cơ sở vật chất với hàng trăm phòng thí nghiệm chuyên sâu, cùng đội ngũ gần 400 giảng viên có trình độ tiến sĩ, chức danh giáo sư và phó giáo sư.

a6.jpg

Về công bố khoa học quốc tế, số lượng bài báo của IUH liên tục tăng qua các năm, đạt 570 bài trong năm 2023, trong đó, hơn 40% được đăng trên các tạp chí quốc tế uy tín thuộc nhóm Q1 và Q2; năm 2024, tổng số bài báo khoa học quốc tế đạt 698 bài.

Trong 5 năm qua, IUH đã có hơn 30 đơn đăng ký sở hữu trí tuệ được chấp nhận, trong đó có 8 bằng được cấp, bao gồm 1 bằng sáng chế. Riêng năm 2023, trường được cấp 15 bằng sở hữu trí tuệ, và trong 9 tháng đầu năm 2024 đã có thêm 10 bằng mới.

Cũng trong năm 2023, IUH quản lý 13 đề tài nghiên cứu khoa học ngoài trường, bao gồm 8 đề tài thuộc Quỹ Nafosted và 5 đề tài của Bộ Công Thương. Ngoài ra, có 62 đề tài nghiên cứu cấp cơ sở do giảng viên và sinh viên thực hiện. Trong 9 tháng đầu năm 2024, trường tiếp tục triển khai 65 đề tài cấp cơ sở (gồm 58 đề tài cấp Trường và 7 đề tài của nhóm nghiên cứu mạnh), 6 đề tài cấp bộ và 4 dự án hợp tác quốc tế. Nhà trường đã dành một khoản ngân sách đáng kể cho các hoạt động khoa học công nghệ, chiếm từ 5-8% tổng doanh thu hàng năm, bên cạnh các nguồn kinh phí huy động từ bên ngoài.

“Có thể nói, tại Việt Nam hiện nay, chỉ một số trường đại học đặc thù như hệ thống các trường y khoa với doanh nghiệp trực thuộc được thành lập từ lâu mới có khả năng duy trì nguồn thu ngoài học phí ở mức tương đối ổn định.

Do đó, việc gia tăng tỷ lệ nguồn thu ngoài học phí vẫn là thách thức chung đối với phần lớn các cơ sở giáo dục đại học. Hiện tại, nguồn thu từ các hoạt động khác của IUH đang có xu hướng tăng, đặc biệt khi các dự án chuyển giao công nghệ từng bước đi vào vận hành. Trong thời gian tới, nhà trường sẽ tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động tư vấn chuyên môn, chuyển giao công nghệ, đồng thời tích cực thu hút các khoản đầu tư theo đơn đặt hàng từ doanh nghiệp hợp tác. Đây sẽ là nền tảng quan trọng để mở rộng và phát triển nguồn thu ngoài học phí một cách ổn định, bền vững”, Tiến sĩ Phan Hồng Hải thông tin.

Bên cạnh việc chú trọng công tác giảng dạy, thầy Hải cho biết, Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh cũng triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học. Theo Quyết định số 2788/QĐ-ĐHCN về Quy chế làm việc với giảng viên, nhà trường đã cụ thể hóa yêu cầu đối với đội ngũ giảng viên trong việc cân đối giữa nhiệm vụ giảng dạy và nghiên cứu.

Đồng thời, cơ chế khuyến khích nghiên cứu khoa học được thiết kế rõ ràng, tạo động lực để giảng viên tích cực, chủ động tham gia mà không gặp áp lực quá tải. Đáng chú ý, nhà trường còn chủ động mời các chuyên gia đến từ doanh nghiệp tham gia giảng dạy, góp phần tăng cường tính ứng dụng và thực tiễn trong từng bài học dành cho sinh viên.

gdvn-bai-bao-khoa-hoc-iuh.jpg
Số lượng bài báo khoa học quốc tế từ năm 2020 đến năm 2024 của Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Số liệu do nhà trường cung cấp. Thiết kế: Thúy Hiền)

“Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc hỗ trợ tài chính cho các hoạt động nghiên cứu khoa học. Bởi lẽ, thông qua nguồn lực này, tính ứng dụng thực tiễn của các công trình nghiên cứu sẽ được thúc đẩy mạnh mẽ hơn.

Tôi cho rằng cần tiếp tục đẩy mạnh các chương trình tài trợ nghiên cứu theo đơn đặt hàng từ doanh nghiệp, tăng cường hợp tác nghiên cứu và chuyển giao công nghệ gắn liền với sản xuất. Bên cạnh đó, cộng đồng doanh nghiệp cũng nên quan tâm hơn đến việc đầu tư tài chính cho các dự án khởi nghiệp công nghệ, tạo điều kiện để sinh viên phát huy tính sáng tạo và hiện thực hóa các ý tưởng đổi mới”, thầy Hải nhận định.

Đề xuất nghị định riêng cho các trường đại học tự chủ

Trong bối cảnh tự chủ đại học hiện nay, việc hoàn thiện hành lang pháp lý nhằm trao quyền chủ động thực chất cho các cơ sở giáo dục đại học là yêu cầu cấp thiết. Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Hà Nội đề xuất cần có một nghị định riêng, quy định rõ các cơ chế về tài chính, nhân sự và hợp tác quốc tế, giúp tháo gỡ rào cản, phát huy tối đa năng lực tự chủ trong đào tạo, nghiên cứu và phát triển.

Theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Dũng, về nhân lực, các trường đại học nên được chủ động xây dựng đề án trả lương theo vị trí việc làm phù hợp với đặc thù và tài chính của đơn vị, do hội đồng trường phê duyệt. Trường cũng cần được trao quyền bổ nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư theo chuẩn của Hội đồng Giáo sư Nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ tiến hành hậu kiểm để đảm bảo tuân thủ theo quy định.

Về tài chính, tự chủ đại học không đồng nghĩa với việc các trường phải hoàn toàn tự túc nguồn kinh phí, mà vẫn cần sự hỗ trợ từ Nhà nước, đặc biệt là kinh phí đầu tư xây dựng cơ bản cho các trường công lập tự chủ toàn phần. Đây là yếu tố then chốt giúp các trường mở rộng quy mô đào tạo và duy trì các ngành đặc thù phục vụ chiến lược phát triển quốc gia.

Bên cạnh đó, việc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho các cơ sở giáo dục và cho phép tiếp cận các nguồn vay ưu đãi để đầu tư phát triển cơ sở vật chất, hạ tầng đào tạo sẽ góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh, cải thiện chất lượng đào tạo, mở ra môi trường học tập hiện đại và thúc đẩy nghiên cứu khoa học gắn với thực tiễn.

Thúy Hiền