Trong bối cảnh hội nhập và phát triển ngày nay, đặc biệt là Cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 đang diễn ra ngày càng khốc liệt và ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống và môi trường sản xuất của các doanh nghiệp.
Cách mạng Công nghiệp 4.0 đào thải nhiều ngành nghề và cũng sinh ra những nhiều công việc mới đòi hỏi phải có nguồn nhân lực với trình độ cao để làm việc trong môi trường đó.
Hơn lúc nào hết, đào tạo nguồn nhân lực bị đặt trước nhiều khó khăn, thách thức - phải đáp ứng nhu cầu về chất và lượng để làm việc trong mô trường cạnh tranh và sáng tạo.
Quá trình đạo tạo cần có chương trình đào tạo gắn liền với sự phát triển của công nghệ trong quá trình sản xuất và hoạt động khoa học công nghệ trong thực tiễn.
Do đó, việc gắn kết nhà trường và doanh nghiệp trong hoạt động đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với nhu cầu thực tế trong hoạt động sản xuất.
Gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp trong đào tạo để đôi bên cùng có lợi. Ảnh minh họa: TTXVN |
Vai trò của doanh nghiệp trong đào tạo rất quan trọng đối với nhà trường vì môi trường sản xuất kinh doanh sẽ hỗ trợ cho người học kinh nghiệm làm việc và góp phần điều chỉnh chương trình đào tạo của nhà trường.
Trong nhiều năm qua việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực thừa về số lượng nhưng chất lượng, kỹ năng thực hiện công việc chưa đáp ứng nhu cầu.
Bên cạnh đó các doanh nghiệp khi tuyển dụng đòi hỏi ứng viên phải có “kinh nghiệm”, nhưng với những sinh viên mới ra trường điều này là không thể, dù nhà trường tìm nhiều cách đổi mới chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy, thực hành-thực tập ở xưởng, tăng cường nghiên cứu khoa học qua các phong trào, chủ để, hội thi nhằm trang bị cho sinh viên nhiều kỹ năng, kinh nghiệm trong ngành nghề.
Mặc dù các đơn vị khoa đã có nhiều cố gắng trong giảng dạy nhưng không đo lường, đánh giá được khả năng tiếp cận công việc thực tế và đáp ứng được đòi hỏi của nhà tuyển dụng.
Mô hình Nhà trường kết hợp doanh nghiệp đào tạo nguồn nhân lực đang là xu hướng tất yếu nhằm giải quyết những khó khăn trên, nó không những là luồng gió mới thổi vào ngành đào tạo, mà còn là động lực thôi thúc các trường đào tạo nguồn nhân lực làm mới mình trong giai đoạn hội nhập hiện nay.
Những vấn đề trong mối liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp
Chất lượng lao động và liên kết giữa nhà trường với doanh nghiệp:
Trong nhiều năm qua, các cơ sở đào vẫn nghe nhiều than phiền từ các nhà tuyển dụng, vì sinh viên sau tốt nghiệp thiếu nhiều kỹ năng như: ngoại ngữ, kỹ năng mềm, kỹ năng giao tiếp, định hướng rõ ràng, kỹ năng chuyên môn,… Thạc sĩ Vũ Tuấn Anh cho rằng “điều mà các công ty cần ở sinh viên là khả năng tư duy, sau đó đến thái độ rồi mới đến kiến thức, kỹ năng” [2].
Điều đó dẫn đến kết quả là: ứng viên có “tấm bằng” nhưng không đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng ngay từ vòng phỏng vấn.
Bên cạnh đó, cũng cần lưu ý đến vấn đề đào tạo tràn lan với một số ngành “hot” thu hút quá nhiều người học dẫn đến lực lượng lao động của ngành gần như bão hoà.
Về phía nhà tuyển dụng không tuyển được do chất lượng lao động yếu mà nguyên nhân xuất phát từ chương trình đào tạo chưa gắn với nhu cầu xã hội, khâu đào tạo số đông không đủ điều kiện thực hành hay thực tập.
Có thể thấy rằng, trong mô hình đào tạo truyền thống, sinh viên chính là sản phẩm cuối cùng của quá trình đào tạo.
Trường nghề nhất định phải gắn kết với các doanh nghiệp |
Mặc dù trong quá trình đào tạo có những tương tác giữa giảng viên và người học nghề, giữa môi trường học tập và làm việc nhưng sự gắn kết giữa xưởng trường và môi trường sản xuất còn khoảng cách quá xa.
Nguyên nhân chính là do sự tách biệt về thời gian và không gian, tức là khi sinh viên ra trường làm việc thì nhà trường mới kiểm tra được khả năng đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp.
Trong quá trình vận hành của nhà trường, các đơn vị đào tạo đã đưa ra nhiều phương thức đào tạo gắn liền môi trường học tập và môi trường sản xuất nhưng việc kiểm tra phản hồi và đánh giá chưa đúng thực lực của người học.
Xét về tổng thể, việc hợp tác giữa trường đại học và doanh nghiệp hiện nay còn hạn chế về số lượng, chất lượng, chuyển giao công nghệ còn chưa theo kịp sự thay đổi của nền kinh tế.
Số lượng doanh nghiệp sẵn sàng cung cấp “thợ cả”, thợ giỏi, chuyên viên để tham gia vào quá trình đào tạo hay tổ chức đào tạo còn quá ít ỏi.
Nhà trường thiết lập quan hệ với doanh nghiệp còn quá ít, đa số chỉ gắn kết với các doanh nghiệp hợp tác ngắn hạn, chưa thường xuyên…
Có thể thấy rằng, liên kết giữa các trường đại học, cơ sở dạy nghề và doanh nghiệp còn gặp khá nhiều bất cập, nhưng không thể không kể đến một số mô hình hợp tác tương đối thành công của một số trường khi đã gắn kết được đồng thời tất cả các yếu tố.
Lợi ích của vấn đề hợp tác nhà trường – doanh nghiệp:
Quyền lợi của doanh nghiệp khi tham gia vào quá trình đào tạo: Thông qua hợp tác với trường đại học, ngoài việc giúp doanh nghiệp quảng bá tên tuổi, thương hiệu (thông qua tài trợ học bổng và cơ sở vật chất), cơ hội tuyển chọn được nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu sản xuất - kinh doanh, thì lợi ích còn là doanh thu từ thương mại hóa các sản phẩm nghiên cứu.
Tuy nhiên, điều quan trọng hơn và mang tính chiến lược là khả năng cạnh tranh cao và sự phát triển bền vững cho doanh nghiệp khi phát triển sản xuất - kinh doanh dựa vào tri thức, công nghệ mới và các bí quyết riêng từ hợp tác nghiên cứu với nhà khoa học và quản lý có trình độ cao từ các trường đại học.
Đối với đại học, hợp tác sẽ thúc đẩy và nâng cao chất lượng các công trình nghiên cứu khoa học, khẳng định giá trị của công trình khoa học, nâng cao uy tín, năng lực công nghệ và thương hiệu của nhà trường.
Các công trình nghiên cứu sẽ có môi trường thực tế để đối chiếu, kiểm nghiệm nên tính ứng dụng trong sản xuất ngày càng nhiều hơn.
Xây dựng mô hình gắn kết giữa cơ sở giáo dục nghề nghiệp và xuất khẩu lao động |
Hợp tác với doanh nghiệp còn là phương thức để các đại học huy động các nguồn lực phục vụ cho các hoạt động nghiên cứu, tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ, giảng viên và nghiên cứu viên thông qua các hoạt động hợp tác nghiên cứu, phát triển sản phẩm.
Thông qua hợp tác với doanh nghiệp, các trường đại học có điều kiện để đổi mới cơ cấu tổ chức và quản lý theo hướng hiệu quả; điều chỉnh, cập nhật chương trình, phương pháp giảng dạy và nghiên cứu phù hợp với nhu cầu thực tế của doanh nghiệp - nhà truyển dụng.
Thực tiễn cho thấy: người học luôn muốn được học tập ở những trường đại học có mối liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp để tăng khả năng có việc làm sau khi tốt nghiệp; các đại học có cơ chế và tổ chức theo hướng doanh nghiệp cũng có cơ hội tốt hơn trong việc cập nhật phương pháp dạy học tiên tiến [6].
Đề xuất giải pháp thực hiện
Phát triển đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý làm cầu nối giữa nhà trường và doanh nghiệp:
Nhận thức và quyết tâm của đội ngũ cán bộ quản lý: Trường đại học là nơi tập hợp đội ngũ các nhà khoa học hàng đầu, trong khi doanh nghiệp có thế mạnh trong nắm bắt thị trường, đầu tư và triển khai thương mại hóa để chuyển giao công nghệ và các kết quả nghiên cứu.
Đội ngũ cán bộ quản lý phải có nhận thức sâu sắc và vạch ra chiến lược cụ thể để tạo dựng các mối quan hệ lâu dài và là cầu nối đưa doanh nghiệp đến trường cũng như đưa đưa sản phẩm đầu ra của mình tới với doanh nghiệp và là nơi tiếp nhận đơn hàng của đơn vị đào tạo.
Ông Trần Anh Tài (Trường đại học Đại Nam) cho biết: “Hơn 90% sinh viên trường Đại học Đại Nam có việc làm sau một năm tốt nghiệp” [6]. Trong bối cảnh mới ngày nay, hợp tác nhà trường - doanh nghiệp xem như là bắt buộc và điều kiện thu hút “khách hàng” cho đầu vào của nhà trường.
Bên cạnh đó phải nhắc đến lực lượng giảng viên: đây là đội ngũ có kiến thức, có kinh nghiệm đào tạo, nghiên cứu khoa học và tiếp thu công nghệ mới.
Tuy nhiên, hiện này lực lượng này cũng cần có những trãi nghiệm trong môi trường sản xuất của doanh nghiệp để từ đó có những bài thực hành, bài dạy hay hơn, thực tế hơn với sinh viên của mình. Kiến thức của giáo viên phải luôn được cập nhật, chuẩn hoá kiến thức.
Xây dựng chương trình đào tạo hướng ứng dụng và hướng mở:
Xây dựng chương trình đào tạo có sự tham gia của doanh nghiệp: thông qua các cuộc hội thảo xây dựng chương trình đào tạo, hội thảo triển khai công nghệ, hay các nghiên cứu dự báo tương lai… từ đó nhà trường có những chương trình đào tạo phù hợp với khung chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo, vừa mang tính hiện đại nhưng cũng sự mềm dẻo dễ dàng điều chỉnh theo thực tiễn.
Phấn đấu năm 2030 giáo dục nghề nghiệp đạt trình độ tiên tiến trong khu vực |
Chương trình đào tạo hiện đại hướng ứng dụng là một xu hướng mới, tăng cường thời gian học tập kinh nghiệm và tiếp xúc thực tế.
Chương trình đào tạo hướng ứng dụng cũng cần có tính mở để dễ dàng bổ sung hay loại bỏ những môn học hay module không còn phù hợp thực tiễn sản xuất.
Hiệu chỉnh chương trình đào tạo theo định kỳ và theo những thay đổi trong thực tế: sự lão hoá của chương trình và sự thay đổi công nghệ diễn ra nhanh chóng, nên có sự điều chỉnh kịp thời, nhà trường cần điều chỉnh mục tiêu đào tạo, chuẩn đầu ra nhằm đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp. Quá trình này cũng cần sự cung cấp thông tin, góp ý và phản biện từ doanh nghiệp.
Ngoài ra, việc xây dựng chương trình đào tạo cần phân hoá Module mạnh mẽ, mỗi module gắn liền với một số kỹ năng cụ thể của ngành (nghề) học mà nhóm kỹ năng này cần được nhiều doanh nghiệp trong ngành góp ý, chỉnh sửa và chuẩn hoá.
Cần có nhân tố doanh nghiệp tham gia vào quá trình đào tạo thông qua chuyên gia đến cơ sở dạy nghề để truyền đạt kinh nghiệm cho một phần của môn học.
Nhà trường cần chấp nhận cho doanh nghiệp đánh giá năng lực làm việc của người học, qua đó doanh nghiệp cũng tìm được nhân lực mình cần tuyển dụng.
Học phần đào tạo thực tiễn tại trường: đưa người học, người thầy đến doanh nghiệp hiện nay gặp nhiều khó khăn, một số doanh nghiệp chưa chấp nhận.
Tuy nhiên, một hướng khác cho nhà trường có thể tiếp cận đó là phối hợp cùng doanh nghiệp tổ chức đào tạo và sản xuất tại xưởng trường, nhà trường có cơ sở hạ tầng, doanh nghiệp có máy móc, thiết bị và chuyên gia.
Cơ sở doanh nghiệp tại trường sẽ làm nơi cho các em thực tập dưới sự hướng dẫn của các chuyên viên đến từ doanh nghiệp, quá trình sản xuất của doanh nghiệp giờ đây diễn ra tại xưởng trường và nguồn lao động là người học có giám sát và có thể làm ra sản phẩm. Do đó chi phí cho sản phẩm sẽ giảm.
Các chuyên gia của doanh nghiệp sẽ hướng dẫn người học làm việc tại xưởng đồng thời cũng tìm ra được những nhân tố mới cần thiết cho doanh nghiệp.
Đẫy mạnh đào tạo kỹ năng: bao gồm ngoại ngữ, kỹ năng mềm và kỹ năng giao tiếp bên cạnh kỹ năng chuyên môn, trong chương trình đào tạo cần tăng cường đào tạo và đánh giá kỹ năng của người học.
Các môn học kỹ năng phải mang tính tực tế, đi vào cái cụ thể, giáo viên đưa ra tình huống và áp dụng trong từng trường hợp cụ thể.
Tổ chức đào tạo và đánh giá kỹ năng nghề nghiệp tại doanh nghiệp:
Phối hợp cùng doanh nghiệp tổ chức cho sinh viên tham quan, thực tập, tìm hiểu quy trình sản xuất, những công nghệ hiện có nhằm giúp các em định hướng được ngành nghề mình đang học và xác định mục tiêu học tập của các em.
Xây dựng tiêu chuẩn “đào tạo kép” [3], “đào tạo kết hợp” [1], “đào tạo theo hướng phục vụ doanh nghiệp” [4]: “học ở trường - trải nghiệm thực tiễn tại doanh nghiệp”: Tổ chức đào tạo trả phí một số một số học phần trong môi trường doanh nghiệp, việc tổ chức này nên được phân nhóm và thời gian học tại doanh nghiệp tăng dần theo từng năm học của sinh viên.
Điều này giúp cho người học trực tiếp tiếp xúc môi trường sản xuất, học tập kinh nghiệm và cũng giúp doanh nghiệp phát hiện ra những lao động mới dành cho tuyển dụng bổ sung vào lực lượng lao động của mình.
Thái Bình xây dựng đề án phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp |
Như vậy, quá trình này cũng giải quyết được vấn đề tích trữ kinh nghiệm cho sinh viên để sau 3 hay 4 năm học là khoảng thời gian trải nghiệm tuyệt vời cho các em.
Trong đó, “mô hình kép, lợi ích kép” mang đến nhiều cơ hội hơn cho sinh viên “các em được học tập trong môi trường thực tế, hiện đại, theo tiêu chuẩn Đức.
Ngoài ra, sinh viên có thu nhập trong quá trình đào tạo và chắc chắn có việc làm ổn định sau khi tốt nghiệp” [1].
Một số ngành nghề khó khăn về môi trường học tại doanh nghiệp - do quy mô của doanh nghiệp hay đặc thù ngành nghề - nhà trường mời chuyên gia, những người có kinh nghiệm, tay nghề về trường đào tạo trên hạ tầng của mình nhằm giảm chi phí và tăng cường khai thác tiềm năng cơ sở vật của nhà trường.
Đánh giá sản phẩm đầu ra là quá trình kiểm chứng kết quả đào tạo: công việc này không chỉ để lấy điểm đánh giá, phân loại bằng tốt nghiệp mà còn phải phản ánh đúng trình độ kỹ năng tay nghề của người học sau tốt nghiệp.
Công việc đánh giá này nhà trường nên mời các chuyên gia của doanh nghiệp trong ngành tham gia đánh giá, vì hơn ai hết những chuyên gia này sẽ có kết luận chính xác về trình độ kiến thức, kỹ năng tay nghề và những tình huống ứng xử thể hiện kỹ năng mềm, kỹ năng giao tiếp của sinh viên.
Ngoài ra, doanh nghiệp còn có cơ sở để tuyển chọn ngay nhân sự cho mình do chính bản thân doanh nghiệp đánh giá để rút ngắn quá trình tuyển dụng.
Lực lượng cựu sinh viên:
Một đầu mối quan trọng cần tâm đó là cựu sinh viên - họ là những người từng làm “đại sứ” cho hoạt động quảng bá cho thương hiệu nhà trường. Qua quá trình hoạt động nghề họ đã có những địa vị, vị trí, vai trò trong các doanh nghiệp.
Do đó, cựu sinh viên cũng là đầu mối quan trọng trong việc thiết lập mối quan hệ giữa nhà trường và doanh nghiệp, họ cũng là người có thể giúp cho sinh viên mới ra trường có thể dễ dàng tiếp cận với các cơ hội việc làm đến từ các cựu sinh viên đã có chỗ đứng trong xã hội.
Theo tác giả Nguyễn Tường Minh “hội cựu sinh viên thường hỗ trợ những sinh viên mới tốt nghiệp, và tạo ra một diễn đàn để kết bạn mới và cung cấp các mối quan hệ kinh doanh với những cựu sinh viên trong cùng lĩnh vực ngành nghề” [5].
Bên cạnh đó, nhà trường cần khảo sát thường xuyên để tiếp nhận những phản ánh từ các em về kiến thức và lao động thực tế, từ đó đơn vị đào tạo điều chỉnh chương trình đào tạo cũng như khai thác thông tin về nhu cầu việc làm, thực tập, học tập, … từ đó xây dựng chiến lược dự báo nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực nhằm đảm bảo gắn chặt giữa đào tạo với sử dụng.
Tăng cường chặt chẽ hơn nữa về mối quan hệ giữa cựu sinh viên với nhà trường, tạo cơ chế để những cựu sinh viên đang làm việc tại doanh nghiệp liên hệ thường xuyên với nhà trường, có thể tổ chức những buổi hội thảo trao đổi kinh nghiệm giữa lý thuyết với thực tiễn.
Đây là cầu nối vững chắc giữa nhà trường và doanh nghiệp, rất hiệu quả, rất thiết thực.
Tài liệu tham khảo:
[1] Kiều Anh. (2018/08/14). "Đào tạo nghề theo mô hình của Đức: Mô hình kép, lợi ích kép". Khoa học & Phát triển, pp.
[2] Hội Thảo “Kỹ năng xã hội của sinh viên Việt Nam gia nhập cộng đồng ASEAN”. (2016/01/26). "Nhà tuyển dụng thất vọng gì ở sinh viên Việt Nam?". Dân Trí, pp.
[3] Sơn Hải. (2018/03/13). "Thí điểm thực hiện mô hình “Đào tạo kép” trong giáo dục nghề nghiệp". Trang tin Đảng Bộ TP.HCM, pp.
[4] Nguyễn Hưng. (2017/04/29). "Phát triển tiêu chuẩn nghề từ mô hình đào tạo phối hợp". Giáo dục&Thời đại, pp.
[5] Nguyễn Tường Minh. (2014). "Vai trò của cựu sinh viên trong công tác xây dựng thương hiệu trường đại học". Kỷ yếu công trình khoa học, pp.
[6] Đinh Văn Toàn. (2016). "Hợp tác đại học - doanh nghiệp trên thế giới và một số gợi ý cho Việt Nam". Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, pp. 69-80.