LTS: Cho đến năm 2013, Nghị quyết của Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) số 02-NQ/HNTW về “định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm 2000”, ban hành năm 1996, thực hiện được 17 năm. Tuy nhiên, chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp.
Để khắc phục những bất cập, phát huy những thành công của giáo dục đào tạo, nhằm tạo ra những thay đổi căn bản, tháng 11 năm 2013 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) đã ban hành Nghị quyết 29-NQ/TW (gọi là Nghị quyết 29) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo.
Đến nay, sau 10 năm thực hiện Nghị quyết 29, sự nghiệp giáo dục và đào tạo nước ta bước đầu đã có một số chuyển biến về đổi mới nhằm nâng cao chất lượng.
Nhân dịp ngày đầu Xuân Quý Mão, Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam có cuộc trao đổi với Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng – nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Phó trưởng ban thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương, hiện đang là Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam.
Phóng viên: Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết 29 Trung ương về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, theo ông, đâu là những điểm đã làm được?
Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng: Nghị quyết 29 của Ban chấp hành Trung ương về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đào tạo ban hành 10 năm. Đó là một Nghị quyết rất quan trọng, có nhiều nội dung tốt về đổi mới, rất cần thiết, tiến bộ và đúng hướng.
Để thực hiện Nghị quyết đã có nhiều chương trình hành động, nhiều đề án dự án và trên thực tế cũng đã triển khai làm nhiều việc như:
Một là, các cơ quan nhà nước đã ban hành một số cơ chế, chính sách tiến bộ trong lĩnh vực giáo dục-đào tạo, trong đó có việc quan trọng là sửa đổi Luật Giáo dục và Luật Giáo dục đại học có những tiến bộ đúng hướng, mặc dù có thể sau đây còn phải bổ sung điều chỉnh để tiếp tục hoàn thiện. Trong luật có ghi rõ về quyền tự chủ của các trường đại học và khẳng định vai trò quan trọng của Hội đồng trường. Đó là một tiến bộ đáng kể, mặc dù việc thực hiện trên thực tế thì không phải không có vấn đề.
Hai là, một số tiến bộ đáng ghi nhận về phổ cập giáo dục mầm non và tiểu học. Tất nhiên kết quả này là thuộc về phát triển giáo dục nói chung chứ không phải nhờ đổi mới, dù tinh thần đổi mới có coi trọng giáo dục mầm non và tiểu học. Tỷ lệ huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đứng thứ 2 ASEAN (sau Singapore). Đây là điểm của giáo dục nước ta được các tổ chức quốc tế như UNICEF, UNESCO, World Bank đánh giá cao.
Ba là, đã ban hành và bắt đầu triển khai thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới theo hướng có tiến bộ hơn trước, mặc dù vẫn cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu để chỉnh sửa một số vấn đề.
Bốn là, một chương trình nhiều bộ sách giáo khoa là chủ trương phù hợp với xu hướng giáo dục hiện đại và tinh thần Nghị quyết, khuyến khích sự sáng tạo trong dạy và học đồng thời tạo sự cạnh tranh để nâng cao chất lượng sách giáo khoa, cung cấp cho xã hội những cách tiếp cận đa dạng đối với những mục tiêu thống nhất.
Năm là, công tác tổ chức thi, kiểm tra, đánh giá đối với giáo dục phổ thông được đổi mới một bước theo hướng đánh giá năng lực và bớt rườm rà, mặc dù sự tiến bộ vẫn còn ít, chưa đủ để gọi là căn bản.
Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng – nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Phó trưởng ban thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương, hiện đang là Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam (ảnh: Ngân Chi) |
Sáu là, việc tự chủ đại học đã có chủ trương chính thức, có nghị quyết của Trung ương và có luật quy định, 23 trường đã được Chính phủ cho phép thực hiện thí điểm. Nhìn chung việc thực hiện thí điểm đã cho thấy, mặc dù còn rất nhiều trở ngại, nhưng kết quả có khá lên đáng kể so với trước, góp phần khẳng định một lần nữa bằng thực tế rằng tự chủ là một cơ chế đúng và cần thiết. Có trường được thí điểm tự chủ đã có bứt phá rõ rệt và mạnh mẽ trong đào tạo và nghiên cứu. Cá biệt có trường được các tổ chức quốc tế xếp vào tốp 400 của thế giới, như Trường Đại học Tôn Đức Thắng và Trường Đại học Duy Tân chẳng hạn.
Bảy là, việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong ngành Giáo dục đang diễn ra tích cực, ngày càng khẳng định tính ưu việt, kể cả trong điều kiện bình thường và nhất là trong điều kiện có dịch bệnh không dạy và học tập trung được. Đây là lĩnh vực sẽ ngày càng tiến bộ nhiều nữa, đến một lúc nào đó, từ tiến bộ của công nghệ thông tin sẽ dẫn đến sự thay đổi căn bản về phương thức hoạt động của con người trên nhiều lĩnh vực.
Phóng viên: Nghị quyết số 29-NQ/TW là Nghị quyết mang tính chiến lược, trong đó có những mục tiêu trung hạn, dài hạn. Dù chưa phải dài, trong khi những thay đổi ở giáo dục luôn có độ trễ lớn, nên chăng, năm 2023, chúng ta cần thực hiện tổng kết 10 năm thực hiện để đánh giá một cách nghiêm túc, làm rõ những mặt được và chưa được, thảo luận kỹ những vấn đề thực chất và hữu ích không, thưa ông?
Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng: Rất cần thiết tổng kết việc thực hiện nghị quyết 29! Và tôi nghe nói cấp trên cũng đã chủ trương như vậy, trong năm 2023 sẽ tổng kết. Là một Nghị quyết tốt, đúng hướng, ra đời 10 năm rồi, chính vị giáo sư đáng kính Hoàng Tụy cũng khen đây là một nghị quyết tốt mặc dù ông ít khi khen như thế, tuy nhiên đến nay vẫn chưa có một đề án tổng thể về mặt chuyên môn để thực hiện, cũng chưa có một ủy ban quốc gia đủ mạnh về đổi mới để quyết định kịp thời các việc lớn liên quan (như Nghị quyết 29 đã nêu) mà một mình Bộ Giáo dục và Đào tạo không giải quyết nổi.
Những mặt được thì như trên tôi đã nói, chắc còn thiếu vì tôi chưa nắm rõ tất cả. Nhưng mặt khác, việc đổi mới giáo dục còn chắp vá và thiếu đồng bộ, cá biệt có những việc làm chưa phù hợp tinh thần Nghị quyết, kết quả đổi mới đạt được không đáng kể, nền giáo dục cơ bản vẫn như cũ (như trước khi có Nghị quyết Trung ương), thậm chí có những biểu hiện báo hiệu sự bất cập và xuống cấp chưa dừng lại.
Đánh giá chính thức kết quả thực hiện nghị quyết phải do tập thể các cấp có thẩm quyền. Tôi chỉ là một ý kiến cá nhân, thấy rằng cho đến nay chưa thể nói là thành công hoặc có nhiều thành tích trong đổi mới. Vì sao việc thực hiện cuộc đổi mới giáo dục chưa thành công và cần làm như thế nào để có thể thành công? Đó là câu hỏi lớn cần được nêu ra để thảo luận kỹ, chuẩn bị tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương một cách nghiêm túc, nhìn thẳng vào sự thật, thực chất và hữu ích, chứ không phải báo cáo thành tích.
Qua 10 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 29 của Trung ương, tôi thấy:
Nâng cao chất lượng giáo dục là yêu cầu lớn nhất và xuyên suốt nằm trong tinh thần Nghị quyết 29, nhưng đến nay nhìn lại thì vẫn chưa thấy rõ ta đã nâng lên như thế nào? Thậm chí còn rất nhiều việc, nhiều vấn đề trái với tinh thần ấy (như hạ chuẩn để tăng số lượng nhằm tăng nguồn thu, mua bán điểm, bệnh hình thức, bệnh thành tích, gian lận tiêu cực trong quản lý, đạo đức học đường và của một số cán bộ trong ngành, một số giáo viên xuống cấp …)
Chất lượng là một trong các đặc tính đầu tiên của giáo dục. Giáo dục là nhằm nâng chất lượng người. Giáo dục là vì chất lượng của một cộng đồng, của dân tộc. Ngay cả giáo dục đại trà cũng là vì muốn nâng chất lượng của cộng đồng. Nhiều vấn đề về số lượng cũng là để nói về chất lượng (ví dụ tỷ lệ người đi học, đã qua đào tạo…chẳng hạn)
Vấn đề số lượng trong giáo dục cũng là vì chất lượng, phải gắn với chất lượng. Không có chất lượng thì giáo dục không còn là giáo dục và thậm chí không còn có ích. Đổi mới giáo dục có mục đích trước tiên và xuyên suốt là nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục. Từ khi có Nghị quyết ta đã làm những gì để bảo đảm và nâng cao chất lượng? Cần nhìn lại cho rõ và tìm giải pháp cụ thể để thực hiện yêu cầu nâng chất lượng của cả nền giáo dục nước nhà.
Có hai việc làm đáng kể nhất là đổi mới chương trình giáo dục ở phổ thông và thực hiện tự chủ ở các trường đại học nhưng xem ra cả hai việc ấy cũng chưa đạt được kết quả như mong muốn chờ đợi. Chương trình tuy có một tiến bộ so với trước đó nhưng về cơ bản vẫn chủ yếu là truyền thụ kiến thức như cũ, chứ chưa rõ việc giúp cho phát triển năng lực người học…Thực hiện chủ trương tự chủ thì ngập ngừng, cùng lúc có cả hai cơ chế song song tồn tại ngay trong các trường được cho tự chủ là cơ chế chủ quản và cơ chế tự chủ mà chủ quản thì có quyền lực mạnh hơn.
Hệ thống giáo dục theo yêu cầu của nghị quyết là một hệ thống mở, liên thông và thực học thì 10 năm qua ta đã làm gì cho nó? Yêu cầu thống nhất đầu mối quản lý nhưng hệ thống quản lý hiện nay thì cắt khúc nhiều hơn trước đây, làm mất tính hệ thống, khó khăn cho việc thực hiện liên thông và phân luồng. Ngay cả cao đẳng chuyên nghiệp cũng thuộc giáo dục đại học nhưng lại bị cắt rời ra khỏi khối đại học và chuyển sang theo hướng dạy nghề…
Dạy nghề đương nhiên là việc rất cần thiết, đó là đào tạo ra những người thợ, nhất là thợ giỏi, bậc cao. Còn cao đẳng chuyên nghiệp như trước đây nước ta đã làm đúng là đào tạo ra các kỹ thuật viên cao cấp, một dạng nhân lực đặc biệt giữ vai trò kết nối giữa những người thợ với các kỹ sư trong dây chuyền sản xuất công nghiệp, nên không thể xếp vào dạy nghề, để rồi đánh đồng nó với. "Cao đẳng" nghề, vốn đi theo hướng khác, rất khó mà liên thông lên đại học.
Như tôi đã nói, dạy nghề là rất cần thiết, nhưng không phải từ đó mà bỏ cao đẳng chuyên nghiệp. Chúng ta đã chuyển mấy trăm trường cao đẳng chuyên nghiệp sang hướng dạy nghề rồi. Thực chất là xóa hệ thống cao đẳng chuyên nghiệp trước đây.
Trước đây ta đã có loại hình trường dân lập. Điều đó rất đúng! Những năm gần đây đã có chủ trương không còn dân lập nữa. Nhiều trường dân lập đã bị buộc phải chuyển sang tư thục, tức là thực hiện tư nhân hóa các trường ấy. Trường tư cũng tốt, nhưng tại sao phải tư nhân hóa trường dân lập? Trong cuộc sống, sẽ có và cũng cần những trường học mà xét về mặt sở hữu nó không phải của nhà nước và cũng không phải của tư nhân thì đó là dân lập chứ gì. Có ý kiến cho rằng vì thấy có một số trường gọi là dân lập nhưng thực tế là tư nhân nên cần có chủ trương như vậy. Đó là việc khác, không thể lập luận như thế được. Sai đâu thì sửa đó chứ không nên quy nạp theo cách ấy. Còn những trường không như thế sao cũng phải chuyển? Tại sao sai trong thực hiện cụ thể ở một số nơi nhưng lại sửa bằng cách bỏ đi một chủ trương đúng.
Loại trường không vì mục đích lợi nhuận đang phát triển ở nhiều nước phát triển, qua quá trình tích lũy và hiến tặng không hình thành sở hữu tư nhân, cũng không phải sở hữu nhà nước, nó là của cộng đồng trường, sẽ là trường dân lập (chứ không phải tư thục như cách đang hiểu ở Việt Nam)
Còn nhiều việc nữa, khi kiểm điểm thực hiện nghị quyết cần thảo luận kỹ để thấy cho rõ vấn đề và sau đó phải chỉnh sửa để thực hiện tốt hơn.
Phóng viên: Để thực hiện hiệu quả đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW, theo ông, giáo dục-đào tạo trong giai đoạn 5 - 10 năm tới cần tập trung giải quyết những nhiệm vụ nào?
Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng: Đây là câu hỏi mà khi trả lời nó có thể sẽ đụng đến nhiều vấn đề rất quan trọng có tính chiến lược và không thể trả lời ngắn trong mấy câu. Ý kiến của tôi đối với câu hỏi này xin được nói một số vấn đề sau đây.
Một là, đổi mới không có mục đích tự thân. Đổi mới không phải để mà thay đổi. Đổi mới là để phát triển mạnh hơn và tốt hơn. Đổi mới giáo dục là để phát triển giáo dục. Phát triển giáo dục là để phát triển con người, dân tộc và đất nước. Nước ta chỉ có thể trở thành một nước công nghiệp phát triển có thu nhập cao khi có đủ điều kiện về nhân tố con người với nguồn nhân lực chất lượng cao. Giáo dục là giải pháp quan trọng nhất để đáp ứng điều đó. Nếu không có nguồn nhân lực chất lượng cao thì không thể hoàn thành mục tiêu trở thành một nước công nghiệp phát triển như tinh thần nghị quyết đại hội XIII đã nêu ra.
Lịch sử phát triển của thế giới cho thấy nhiều nước đã trở thành cường quốc giàu mạnh bắt đầu từ cải cách giáo dục và đổi mới thể chế quản trị quốc gia. Đó là nước Anh một thời là trung tâm phát triển của Châu Âu, rồi nước Mỹ sau nội chiến và liên tục nhiều lần sau đó cho đến bây giờ, nước Nga (kể cả thời của Pi-e Đại đế và tiếp theo là thời của Lê-nin sau này khi ông chủ trương phải: Học, học nữa, học mãi).
Nước Đức vào thế kỷ 19 cũng như vậy để trở thành một nước công nghiệp hiện đại sau đó. Nước Nhật càng rõ nữa khi Minh Trị Thiên Hoàng tiến hành một cuộc đại cải cách nước Nhật bắt đầu từ sự học. Hàn Quốc sau chiến tranh 1953 họ bắt đầu từ kinh tế để khắc phục hậu quả chiến tranh, nhưng liền sau đó là chăm lo giáo dục để có bước tiến tiếp theo mạnh mẽ và bền vững hơn. Singapore cũng vậy. Ngay cả Trung Quốc, muốn phát triển cũng phải cải cách giáo dục và cải cách thể chế quản lý…
Nước Việt Nam ta cũng không thể ngoại lệ. Năm 1945, trong những ngày đầu của chính quyền mới thì Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động chống “giặc dốt” (trước cả giặc ngoại xâm) và công cuộc này đã được tổ chức thực hiện rất thành công, đưa Việt Nam từ chỗ trên 90% dân số mù chữ đã thành một Việt Nam mà gần 100% dân số biết chữ sau này, lực lượng đó đã làm thành công 4 cuộc chiến tranh vệ quốc và thống nhất đất nước, rồi bắt đầu công cuộc đổi mới sau chiến tranh.
Khi bắt đầu đổi mới, tập thể lãnh đạo của Việt Nam đã xác định giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đó là một chiến lược có tầm nhìn xa và sâu sắc. Nhưng rất tiếc là nhiều chục năm qua nó chỉ mới dừng lại ở quan điểm. Trong các chiến lược, kế hoạch và chỉ đạo công việc chưa thể hiện là quốc sách đó. Đến nay nền giáo dục của ta, nhất là giáo dục đại học còn rất nhiều mặt yếu kém. Với thực trạng này không thể nào trở thành một nước công nghiệp phát triển được. Đầu tư cho giáo dục đại học còn rất thấp so với các nước. Gần đây khi nói đến tự chủ đại học lại có sự nhầm lẫn "chết người" tự chủ với tự túc tài chính.
Cũng có ý kiến phát hiện việc đầu tư cho giáo dục nói chung không đạt 20% như nghị quyết của của Trung ương và Quốc hội (mà mới có khoảng 15%). Tôi chưa có điều kiện để trực tiếp thẩm định con số nào là đúng, đề nghi các cơ quan có trách nhiệm xem xét số lượng và kể cả cách tính. Công việc giáo dục đào tạo có tính chất vừa công vừa tư, đầu tư cho nó cũng như vậy. Nhà nước tốt thì phải quan tâm đầu tư cho giáo dục, quốc sách hàng đầu cũng phải được thể hiện qua đầu tư. Nên đối chiếu giữa ta và các nước xem thử họ làm thế nào để tham khảo. Vào thời gian cuối đời, Lê nin đã có lưu ý cần đi học Mỹ về phát triển giáo dục để về xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô.
Việc đầu tiên cần làm là phải thực hiện đúng tinh thần “giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Muốn vậy, trước nhất là các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của quốc gia phải thực sự quan tâm hàng đầu đối với giáo dục. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo dù có muốn cũng không thể nào biến giáo dục thành quốc sách hàng đầu được (tất nhiên ông có trách nhiệm tham mưu), mà chỉ có những người đứng đầu quốc gia quan tâm hàng đầu thì nó mới có thể là quốc sách hàng đầu.
Nhìn lại tất cả các nhiệm kỳ từ trước tới nay, người đã dồn công sức hàng đầu cho giáo dục ngoài Chủ tịch Hồ Chí Minh ra, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng có thể hiện sự quan tâm so với nhiều đồng chí khác. Còn lại, nói chung là chưa quan tâm chỉ đạo trên thực tế đúng với tinh thần quốc sách hàng đầu.
Kinh tế, chính trị, quốc phòng và an ninh, đối ngoại, chống tham nhũng, xây dựng đảng và chính quyền thường được quan tâm hơn, hàng đầu hơn so với giáo dục – tôi thấy như thế! Mặc dù các lĩnh vực đó đều quan trọng, nhưng cũng cần luôn nhớ rằng tất cả mọi công việc ấy đều được thực hiện bởi con người của nền giáo dục tạo ra.
Hai là, giáo dục phải lấy chất lượng làm đầu (như phần trên tôi đã nói). Bản chất giáo dục là vậy. Nó tạo nên chất lượng con người, chất lượng dân tộc, chất lượng nguồn nhân lực. Ngay cả giáo dục đại chúng, giáo dục phổ cập cũng là vì chất lượng của một cộng đồng. Bản chất Nghị quyết 29 của Trung ương về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục-đào tạo là nâng chất lượng của nền giáo dục. Nếu nói Nghị quyết ấy gom lại trong một từ thôi thì theo tôi đó là Nghị quyết “nâng chất lượng” nền giáo dục.
Kiểm tra lại xem 10 năm qua có những việc làm nào sai hướng đó (như chạy theo số lượng xem nhẹ chất lượng, gác cổng đầu vào mà thả lỏng đầu ra, chạy theo chỉ tiêu, chạy theo giải ngân, hạ chuẩn, bệnh thành tích, bệnh hình thức, chạy nâng điểm, ngồi nhầm lớp, chạy học hàm học vị, …). Những việc làm nào trái với mục đích, yêu cầu và tư tưởng chỉ đạo của Nghị quyết? Tôi nghĩ là không ít đâu.
Do đó, cần phải tổng kết nghiêm túc việc tổ chức thực hiện Nghị quyết 29 xem chúng ta đã làm như nào, đã có cái nhìn tổng thể, nhất quán và khoa học chưa, hay còn chắp vá và lúng túng, lủng củng nữa.
Không nên tổng kết cho có tổng kết, mà phải nghiêm túc khoa học, thành tâm và trách nhiệm với công việc và đất nước, nhìn thẳng vào sự thật và nói rõ sự thật, không phải để báo cáo thành tích, không sợ trách nhiệm do làm chưa tốt. Nói chung là phải tổng kết với tư cách của những người có văn hóa, có trách nhiệm cao với đất nước, vì tương lai của dân tộc này. Để từ đó thấy rõ nguyên nhân chưa thành công và quyết làm cho thành công bằng được công cuộc đổi mới căn bản này. Đây là công việc không dễ, vừa khoa học, văn hóa và cả nghệ thuật nữa, nhưng hoàn toàn có khả năng làm được và phải quyết làm cho bằng được, nếu muốn đất nước mình cường thịnh và tiến bước cùng nhân loại văn minh.
Ba là, chương trình giáo dục phổ thông nếu tốt sẽ là công việc rất quan trọng để nâng chất lượng giáo dục phổ thông. Cần đánh giá kỹ về mặt khoa học đối với chương trình đã có, tiếp tục bổ sung và điều chỉnh, nhằm hoàn thiện căn bản việc chuyển quá trình giáo dục từ chủ yếu là truyền thụ kiến thức sang phát triển năng lực và xây dựng đạo đức (giáo dục nhân bản). Trong năng lực thì trước tiên và quan trọng nhất là năng lực tư duy độc lập. Trong xây dựng đạo đức, giáo dục nhân bản thì quan trọng nhất là tính trung thực và lòng nhân ái. Khi có trung thực thì sẽ biết tự trọng, trước tiên là tự trọng với chính mình và có trách nhiệm với xã hội. Còn lòng nhân ái sẽ thể hiện tính nhân văn của con người và xã hội.
Trong giáo dục phổ thông, cần chú ý đặc điểm: giai đoạn mầm non và tiểu học là thời kỳ quan trọng nhất đối với việc hình thành nền tảng nhân cách (còn sau đó là hoàn thiện và bổ sung), trung học cơ sở là phổ thông cơ bản, trung học phổ thông là thời kỳ bắt đầu tiếp cận nghề nghiệp.
Bốn là, cần phải phấn đấu để tăng thêm tỷ lệ lao động có trình độ đại học trong tổng số lao động. Nước ta hiện nay tỉ lệ này mới khoảng 12-15%, trong khi nhiều nước phát triển đạt 32-36%, họ gấp đôi ta về tỷ lệ, chưa kể mặt chất lượng nữa. Đây là tiêu chí đầu tiên của một nước công nghiệp phát triển. Nước ta không thể nào trở thành một nước công nghiệp phát triển nếu tỷ lệ lao động như hiện nay.
Trong vòng 25 năm tới tỉ lệ này cũng cần được nâng lên gấp đôi nếu muốn đạt mục tiêu nước công nghiệp phát triển. Như vậy là quy mô phát triển giáo dục đại học sẽ rất lớn. Đừng nghĩ khi nào có công nghiệp nhiều thì sẽ đào tạo nhiều để đáp ứng, nay thiếu việc làm thì đào tạo ra để làm gì, không hiệu quả. Nghĩ thế là nghĩ ngược, thiếu nguồn lao động đảm bảo chất lượng thì lấy ai làm công nghiệp mà phát triển, nước ngoài cũng khó đầu tư vào vì không có nhân lực tại chổ– là điều kiện quan trọng để đầu tư (mang lao động từ nước khác đến đây chi phí nhiều thứ cao lắm). Tất nhiên việc đào tạo như thế nào cũng cần có dự báo về tình hình thị trường để việc đầu tư hiệu quả cao hơn.
Đừng lấy cớ “thừa thầy thiếu thợ” để hạn chế giáo dục đại học. Tất nhiên là cần tính toán cơ cấu ngành trong đào tạo để không bị vừa thừa vừa thiếu. Đừng nghĩ đây chỉ là nói về số lượng. Không phải thế đâu, vì tỷ lệ đại học trong cơ cấu lao động xã hội còn thể hiện chất lượng quan trọng của nguồn nhân lực đấy. Như thế là vừa phải mở rộng hơn quy mô đào tạo của các trường, vừa phải có thêm không ít các trường đại học nữa. Vấn đề đáng lưu ý là kiểm soát chất lượng đầu ra, chứ đừng nghĩ nhiều trường thì đồng nghĩa với chất lượng kém.
Năm là, khi tăng quy mô đào tạo đại học thì ngân sách nhà nước không đủ sức? Hoàn toàn đúng như thế. Chưa tăng quy mô, mới chỉ như hiện nay, mà đã rất khó khăn rồi. Tỷ lệ đầu tư cho giáo dục đại học so với GDP ở Việt Nam hiện nay chỉ bằng 1/2 đến 1/7 so với các nước, đầu tư cho một sinh viên chỉ bằng ½ đến 1/5 các nước. Rất khó có chất lượng cao với giá rẻ. Vậy mà tăng gấp bội số lượng sinh viên thì ngân sách nhà nước làm sao chịu nổi?
Cho nên tất yếu phải đẩy mạnh tiếp tục xã hội hóa để cho nhân dân và xã hội cùng tham gia đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư quốc tế nữa. Đó cũng là xu hướng phù hợp chứ ngân sách nhà nước không thể gánh quá nhiều. Tiềm lực chung của cả xã hội sẽ lớn hơn nhiều so với tiềm lực của nhà nước. Cơ cấu các loại trường nên điều chỉnh phù hợp với tình hình đó. Số trường công lập do nhà nước trực tiếp đầu tư chỉ có thể (và nên như vậy) chiếm một tỷ lệ ít, còn các loại trường ngoài công lập chiếm tỷ lệ nhiều hơn.
Tại các nước phát triển, tỷ lệ ngoài công lập chiếm khoảng 70% số sinh viên hoặc hơn thế nữa, còn công lập chỉ có 30%. Nước ta hiện nay ngoài công lập là 18%, còn công lập đến 82%. Tăng mạnh số trường và số sinh viên ngoài công lập là một tất yếu.
Các trường mới thành lập nói chung nên là trường ngoài công lập, còn nói chung không lập thêm trường mới công lập nữa. Đồng thời các trường công lập đã có nếu khó khăn quá, không phát huy được hiệu quả thì nói chung cũng không nên giải thể (vì trước sau cũng cần phải có thêm trường), và cũng không sáp nhập (vì đó không phải là lối ra), mà nên chuyển sang trường ngoài công lập không vì lợi nhuận hoặc cho thực hiện hợp tác công tư trong hoạt động và phát triển trường (việc hợp tác công tư đã có chủ trương rồi nhưng nghe ra các nhà đầu tư vẫn chưa yên tâm, nhất là đầu tư không vì lợi nhuận, không phải để kinh doanh chia lãi).
Sáu là, trong loại trường ngoài công lập nên ưu tiên khuyến khích nhất đối với loại trường không vì lợi nhuận. Đây sẽ là loại hình rất triển vọng đối với tương lai của giáo dục đại học ở Việt Nam. Hiện nay tại Anh, Mỹ loại trường này phát triển mạnh và tốt. Trong tốp 100 trường đứng đầu thế giới (theo xếp hạng của các tổ chức quốc tế) thì đa số là loại trường không vì lợi nhuận, nhất là các trường của Mỹ. Ở Mỹ, trong số 20 trường đứng đầu nước Mỹ thì có đến 19 trường là không vì lợi nhuận, chỉ có một trường là công lập được xếp thứ 20 và không có trường nào là trường tư thục (có lợi nhuận).
Các trường đại học nổi tiếng bậc nhất thế giới như Harvard, MIT, Stanford…là các trường không vì lợi nhuận. Thực tế đó đã chứng minh loại hình trường không vì lợi nhuận có mặt mạnh và hiệu quả nhất. So với các trường công lập thì trường không vì lợi nhuận có lợi thế về cơ chế tự chủ. So với các trường tư thục (có lợi nhuận) thì trường không vì lợi nhuận có lợi thế hơn về mục đích mục tiêu hoạt động. Trường không vì lợi nhuận tập trung cho một mục tiêu là chất lượng đào tạo và phát triển nhà trường, không bị chi phối bởi sức ép của việc phân chia lợi nhuận cho các cổ đông.
Ở Việt Nam nói chung là chưa có trường không vì lợi nhuận, trừ trường Đại học Fulbright Việt Nam mới thành lập ít năm nay theo sự thỏa thuận hợp tác giữa nguyên thủ hai nước Việt - Mỹ đang phát triển tốt theo hướng không vì lợi nhuận, trường RMIT cũng hướng ấy (đang thực hiện du học tại chỗ).
Cũng có ý kiến cho rằng, trường không vì lợi nhuận do không chia lợi nhuận cho người góp vốn, (mà lợi nhuận nếu có thì để hết 100% cho phát triển trường), nên không huy động được tiền đầu tư như trường tư thục có lợi nhuận, dẫn đến hạn chế đầu tư vào giáo dục. Ý kiến đó cũng có một phần đúng với thực tế của Việt Nam cho đến hôm nay.
Nhưng mặt khác cũng phải thấy rằng tương lai sẽ khác. Trong xã hội và kể cả các quỹ đầu tư quốc tế có những nguồn vốn dành cho giáo dục chỉ đầu tư vào loại trường ngoài công lập không vì lợi nhuận. Nhà đầu tư không muốn đầu tư vào trường công vì có cảm giác giống như đi nộp thuế cho nhà nước, cũng không muốn đầu tư vào trường tư để người khác chia lợi nhuận. Còn ai muốn đầu tư có lợi nhuận thì cứ tiếp tục đầu tư vào trường tư thục có chia lợi nhuận chứ có ai ngăn cản hạn chế gì đâu.
Lâu nay có nhiều ý kiến nghiên cứu đã đặt ra câu hỏi nên xử lý thế nào về mối quan hệ giữa giáo dục và thị trường trong định hướng xã hội chủ nghĩa? Thảo luận mãi và cuối cùng nêu ra một ý khả dĩ hơn rằng, sử dụng cơ chế thị trường để thúc đẩy phát triển dịch vụ giáo dục nhưng không thị trường hóa giáo dục. Nói lý thuyết thì nghe cũng được, tạm thời đồng ý như vậy, nhưng vẫn rất trừu tượng. Nay nghiên cứu kỹ mô hình trường không vì lợi nhuận của các nước, tôi thấy mô hình cụ thể này đã giúp ta có một câu trả lời tốt cho câu hỏi đó. Bản chất của mô hình không vì lợi nhuận rất phù hợp với tính chất xã hội chủ nghĩa mà lâu nay ta đã hiểu.
Bảy là, cần phát triển cho được một số trường có chất lượng cao đẳng cấp quốc tế (tốp 100-200 của thế giới). Việc này sẽ thúc đẩy nâng cao chất lượng đại học và xây dựng thương hiệu quốc gia. Lãnh đạo Chính phủ của nước ta nhiều nhiệm kỳ đã quan tâm theo đuổi mục tiêu này, đã đầu tư 700 triệu USD vào các trường Việt Đức, Việt Pháp, Việt Nhật, đó là chưa kể các đầu tư thường xuyên vào các đại học quốc gia và đại học vùng, nhưng đến nay vẫn chưa thành công.
Trong khi Trường Đại học Tôn Đức Thắng và Trường Đại học Duy Tân nhờ cơ chế tự chủ mà phát triển lên, lọt vào tốp 400 của thế giới mặc dù nhà nước không đầu tư. Tất nhiên 2 trường này vẫn phải cố gắng liên tục, phát huy dân chủ nội bộ và lắng nghe dư luận của báo chí và xã hội, tự kiểm tra chấn chỉnh các sai sót, củng cố và nâng cao thêm nhiều nữa (chú ý đánh giá thực chất về sự tiến bộ trong hợp tác nghiên cứu khoa học đến đâu để rút kinh nghiệm làm tốt hơn).
Qua thực tế cho thấy, hoàn toàn không phải cứ đầu tư nhiều tiền vào thì có đại học đẳng cấp cao, mà quan trọng có tính quyết định chính là cơ chế tự chủ, năng lực quản trị, quản lý và tầm tư duy của lãnh đạo chủ chốt nhà trường. Nhà nước giúp chủ yếu bằng cách tạo cơ chế và môi trường, hỗ trợ kỹ thuật về chất xám, chia sẻ kinh nghiệm và đào tạo cán bộ quản trị.
Tám là, tự chủ đại học là một giải pháp lớn, rất quan trọng, có ý nghĩa đột phá để đại học Việt Nam trưởng thành. Chưa có tự chủ chưa phải là đại học đủ trưởng thành. Thế giới đã thực hiện điều này từ rất lâu. Các nhà khoa học đã có một "định nghĩa" theo cách trả lời câu hỏi đại học là gì? và câu trả lời đại học là tự chủ.
Nước ta đã có chủ trương của Trung ương, Quốc hội và Chính phủ, đã có các nghị quyết, luật và các văn bản pháp lý dưới luật về thực hiện tự chủ đại học. Đó là một bước tiến đáng kể về tư duy quản trị so với những thập niên trước đây. Nhưng rất tiếc là đến nay việc thực hiện tự chủ vẫn rất gian khó, chỉ mới một số trường được thực hiện thí điểm tự chủ, chưa được tổng kết một cách nghiêm túc, cách làm thì nửa vời, vừa tự chủ vừa không được tự chủ, vừa nói cơ chế tự chủ vừa thực hiện cơ chế chủ quản, trong khi hai loại cơ chế đó rất khác nhau.
Bản chất cơ chế chủ quản có nguồn gốc từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung mà nước ta đã bắt đầu từ bỏ hơn ba mươi năm trước, nó đã lạc hậu và cản trở, nhưng trong giáo dục đại học mãi vẫn chưa bỏ được, nó có nguyên nhân từ nhận thức và từ lợi ích cục bộ nữa. Sở dĩ việc này khó là vì nó liên quan đến phân chia quyền lực, ai cũng muốn nắm quyền và giữ cửa.
Nếu không kiên quyết thực hiện tự chủ thì một chủ trương đúng và tốt sẽ bị phá sản và quản trị đại học vẫn lúng túng không có đường ra, không giải quyết được vấn đề chất lượng và động lực phát triển.
Chín là, loài người đang tiến nhanh vào nền văn minh mới của kỷ nguyên thông tin và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Tận dụng lợi thế của công nghệ thông tin, kết nối và số hóa; Dữ liệu mở, Giáo dục mở, Tài nguyên Giáo dục mở và Khoa học mở là một xu thế tất yếu và có lợi, giúp cho các cơ sở giáo dục đào tạo, giảng viên và sinh viên có thể sử dụng nguồn tài nguyên thông tin của thế giới để thực hiện quá trình đào tạo và tự đào tạo. Giáo dục đại học Việt Nam cần tranh thủ cơ hội này để phát triển.
Thông tin là nguồn tài nguyên vô tận, không cạn kiệt và liên tục bổ sung. Đó là nguồn tài nguyên lớn nhất và giá trị nhất đối với sự phát triển của con người và đất nước. Nhà nước cần tạo điều kiện về hạ tầng, cấp phép mở và nâng cao trình độ quản lý vĩ mô để thúc đẩy phát triển lành mạnh và bền vững. Cùng với xu thế đó, việc hợp tác đào tạo với các trường chất lượng cao của nước ngoài cũng là một giải pháp tốt.
Mười là, cần thống nhất đầu mối quản lý nhà nước về giáo dục, khắc phục tình trạng phân khúc, chia cắt, chắp vá như hiện nay, để từ đó mà tổ chức liên thông, phân luồng, phân tầng, phân ngành và phối hợp về sứ mệnh của các cơ sở đào tạo và thực hiện thống nhất về cấp độ đào tạo phù hợp với các quy định chung của quốc tế để tham gia hội nhập thị trường lao động toàn cầu.
Cao đẳng chuyên nghiệp trước đây vốn thuộc khối giáo dục đại học nhưng hiện nay đã cắt đôi do hai Bộ quản lý và đã chuyển thành cao đẳng nghề, vì thế theo quy định của Liên hiệp quốc họ đã tính các trường ấy thuộc cấp đào tạo bậc 4 (tức là đào tạo sau phổ thông) chứ không tính cấp đào tạo bậc 5 nữa (là bậc cao đẳng thuộc giáo dục đại học), nói cách khác là hạ xuống một cấp. Hiện nay ở nhiều nước phát triển tỷ lệ sinh viện học đại học không phải học liên tục ngày càng nhiều, họ học mấy năm rồi ra làm việc, sau đó lại học tiếp mấy năm nữa hoặc học thêm dần dần các tín chỉ đến khi đủ thì xong đại học. Cách làm đó cũng tiện cho người học và qua thực tế công việc rồi học tiếp thì sự tiếp thu khi ấy cũng hiệu quả hơn. Tất nhiên muốn làm được vậy thì cần phải thiết kế chương trình đào tạo và xử lý tốt cơ chế liên thông. Qua đó ta thấy đào tạo cao đẳng với tư cách là "phần đầu của đại học" là cần thiết.
Phóng viên: Với thực tế của Việt Nam như hiện nay thì nên giải quyết vấn đề cao đẳng như thế nào theo ông?
Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng: Cần phân biệt giữa dạy nghề và cao đẳng chuyên nghiệp, giữa đào tạo thợ bậc cao và kỹ thuật viên bậc cao, giữa kênh có liên thông lên đại học và kênh không cần liên thông.
Các trường nào cao đẳng nghề hiện nay (thực chất là nghề cao cấp) ổn định theo hướng dạy nghề thì theo chương trình dạy nghề (do Bộ Lao động và Thương binh xã hội quy định khung), còn trường nào muốn đào tạo kỹ thuật viên theo hướng sẽ liên thông lên đại học thì theo chương trình cao đẳng có thể liên thông (do Bộ Giáo dục quy định khung).
Các trường đại học địa phương, đại học theo hướng ứng dụng (không phải hướng nghiên cứu) thì mở thêm phân khúc cao đẳng (còn các trường nghiên cứu, đại học quốc gia, đại học vùng thì lo vươn lên đào tạo sau đại học nữa, chứ không cần vươn xuống theo cao đẳng). Tôi nghĩ nên phân khúc như vậy. Và cho lập thêm các trường cao đẳng hoặc vừa cao đẳng vừa đại học ngoài công lập. Và tổ chức hợp tác đào tạo giữa các trường đại học và các trường cao đẳng theo hướng khớp nối chương trình liên thông giữa cao đẳng với đại học, thừa nhận tín chỉ của nhau.
Giáo dục đại học và nghiên cứu khoa học cũng rất cần thống nhất nhưng lại vẫn bị cắt khúc ra. Nguồn nhân lực để nghiên cứu khoa học phần lớn đang nằm ở các cơ sở đại học, đó là nơi cung cấp con người cho nghiên cứu khoa học và thông qua việc tham gia nghiên cứu khoa học mà nâng chất lượng giáo dục đại học.
Mặt khác, cần phát triển nghiên cứu khoa học ở các trường đại học là khu vực chính của hoạt động khoa học của quốc gia. Bản thân phổ thông trung học cũng có nhu cầu kết nối, liên thông với giáo dục đại học, ít nhất là thông tin về nghề nghiệp.
Chuyện cuối cùng muốn nói hôm nay là các trường cao đẳng sư phạm đang hết sức khó khăn, nếu không giải quyết về cơ chế cho lối ra thì một thời gian không dài nữa các trường ấy không thể tồn tại nữa.
Đổi mới giáo dục có yêu cầu nâng trình độ sư phạm chứ không phải không cần sư phạm. Sư phạm vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Các trường này có những trường đã đào tạo giáo viên cấp 1,2 lâu rồi, rất kinh nghiệm, nhưng bây giờ không được đào tạo nữa do bảo rằng giáo viên cấp 1,2 cần phải được đào tao đại học. Xin thưa, không nên máy móc như thế.
Trình độ sư phạm và đào tạo có liên quan rất nhiều với thực tế công việc. Ai có thực tế hơn, kinh nghiệm hơn các trường này về đào tạo giáo viên cấp 1,2? Mặt khác, người đi học ở địa phương và về địa phương ấy công tác, không phải đi tập trung xa cũng là rất tiện và kinh tế. Mà cao đẳng cũng thuộc giáo dục đại học rồi, cần nâng thêm mặt nào thì tổ chức bồi dưỡng cho giáo viên. Tất nhiên các trường ấy cũng cần theo hướng đa ngành, mặc dù việc chính là sư phạm.
Trân trọng cảm ơn và chúc mừng năm mới Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng.