Muốn tự chủ đại học thực sự có hiệu quả, theo Giáo sư Trần Đức Viên – Chủ tịch Hội đồng trường, Học viện Nông nghiệp Việt Nam - khi chia sẻ với Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, thì mục đích tối thượng của tự chủ đại học là nâng cao chất lương đại học theo cac chuẩn mực và thông lệ quốc tế, trong đó có việc đảm bảo thu nhập chính đáng của nhà giáo từ các hoạt động chuyên môn phải ở mức trung bình cao trong xã hội, để họ có thể dồn tâm trí lực xây dựng và phát triển một nền giáo dục của khai sáng, một nền giáo dục của của nhân cách và phẩm giá.
Tự chủ mà không nâng cao chất lượng giáo dục đại học, tự chủ mà không nâng cao đời sống của giáo giới thì tự chủ để làm gì?
Đó là một con đường dài; nhưng nhà nước có thể thực hiện một số việc "cần làm ngay", trước hết là cần tăng phân quyền, giao thêm quyền cho cơ sở giáo dục đồng thời với các quyền đã được giao theo Luật số 34 và Nghị định 99, trước mắt, nhà nước xem xét giao thêm các quyền mà bản thân nền tự do học thuật đòi hỏi, như:
Thứ nhất, về tự chủ tài chính, tài sản và đầu tư
Theo Giáo sư Viên, tự chủ tài chính không có nghĩa là các cơ sở giáo dục phải tự túc, tự lo kinh phí, mà nhà nước chỉ thay đổi phương thức đầu tư: Chuyển từ cơ chế phân bổ ngân sách mang tính bình quân giữa các trường đại học công lập sang gắn với các tiêu chí phản ánh chất lượng đại học thông qua kết quả đầu ra (KPIs) của cơ sở giáo dục;
Và chuyển từ đầu tư theo dòng kinh phí-hạng mục (line-items) sang đầu tư một khoản kinh phí (block grants), nhà trường được quyền linh động sử dụng nguồn kinh phí đó một cách hiệu quả nhất.
Xác định chi phí đào tạo bình quân (chi phí đơn vị, unit cost, hoặc là suất chi đào tạo) và suất đầu tư của từng nhóm ngành đào tạo theo các chuẩn đầu ra khác nhau, trong một khoảng thời gian nào đó, như 5 năm chẳng hạn, làm cơ sở cho việc tính đúng, tính đủ học phí, loại bỏ tâm lý bao cấp về học phí vẫn còn rất nặng nề trong xã hội.
Một số cơ sở được tự chủ về mức chi, nhưng mức thu lại chưa tương xứng, dẫn tới hiệu quả không hơn là bao so với không tự chủ. Do bị khống chế về mức trần học phí, thường là thấp, thu không đủ chi, nên một số cơ sở đã "xé rào", ban hành nhiều khoản thu "tự nguyện" ngoài quy định, dẫn đến thiếu công khai, minh bạch trong việc sử dụng nguồn thu, làm xấu đi hình ảnh người thày trong mắt người học.
Tự chủ mà không nâng cao chất luong giáo dục đại học, tự chủ mà không nâng cao đời sống của giáo giới thì tự chủ để làm gì? (ảnh minh họa: VOV) |
Sau khi tính đúng tính đủ chi phí đào tạo, nhà nước chỉ nên qui định mức học phí tối thiểu để đảm bảo chất lượng đào tạo đạt chuẩn tối thiểu, chưa nên qui định mức tối đa (mức trần), cho phép các cơ sở giáo dục tự tính mức chi phí theo các chuẩn đầu ra cao hơn đến mức ngang bằng với các trường đại học tiên tiến trên thế giới để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, khuyến khích thu hút “du học nội địa”.
Cụ thể, theo tạp chí StudyTravel, khi đại dịch Covid-19 chưa xuất hiện, con số du học sinh Việt Nam hàng năm vào khoảng gần 200 ngàn người, và dòng USD "chảy" theo họ ra nước ngoài, ước chừng khoảng $3 triệu.
Về đầu tư, đầu tư cho giáo dục đại học ở Việt Nam rất thấp, theo Ngân hàng thế giới, Việt Nam phân bổ nguồn lực công hơn 5% GDP cho giáo dục, tuy nhiên trong đó, mức đầu tư cho giáo dục đại học hiện quá ít, chỉ chiếm 0,33% (có tài liệu cho rằng còn thấp hơn thế); vì vậy rất nên cân nhắc lại Khoản 3 Điều 64 của Luật số 34 về Nguồn tài chính của cơ sở giáo dục đại học, trong đó mục “Ngân sách nhà nước cấp cho các cơ sở giáo dục” chỉ là “nếu có”(?).
Nhà nước không thể không có trách nhiệm tài chính với các cơ sở giáo dục công lập, điều này trái ngược với xu thế tự chủ đại học trên thế giới, ở đó các cơ sở giáo dục được tự chủ tài chính theo nghĩa, họ vẫn được nhà nước tài trợ mạnh tay, không vì tự chủ mà đầu tư và hỗ trợ của nhà nước giảm xuống.
Ở Trung Quốc, Đại học Thanh Hoa, Đại học Bắc Kinh là hai đại học tự chủ và cũng là hai trường được đầu tư nhiều nhất trong Đề án 985 (mỗi trường nhận 1,8 tỷ nhân dân tệ, tương đương khoảng 267 triệu $);
Ngân sách của chính phủ trực tiếp rót vào các trường đại học vẫn chiếm khoảng một nửa chi phí hoạt động thường xuyên, như với trường Đại học Sư phạm Hoa Đông (ECNU), một trong 36 đại học được xếp hạng A trong kế hoạch hạng nhất kép (double first-class) ở Trung Quốc là khoảng 1.520 triệu nhân dân tệ (khoảng 226 triệu $), học phí của sinh viên và thu nhập tạo ra từ các chương trình đào tạo chiếm khoảng 24% tổng nguồn vốn, sinh viên phải nộp khoản học phí hàng năm khoảng 5.000 nhân dân tệ (17 triệu đồng);
Cùng với hỗ trợ từ nhà nước, các hợp đồng nghiên cứu của ECNU cũng lên tới 279 triệu nhân dân tệ (khoảng 41 triệu $). Thêm nữa, ECNU còn nhận được các khoản tiền tài trợ lớn từ chính phủ qua Đề án 985 về "Thúc đẩy các trường đại học đẳng cấp thế giới” và Dự án 211, một dự án trọng điểm nhằm nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học của các trường đại học Trung Quốc.
Nhà nước cho phép các trường hoàn toàn tự chủ các khoản thu hợp pháp mà cơ sở giáo dục có được như các trường tư, tránh sự ràng buộc về Luật Ngân sách và Luật Đầu tư công, và cơ quan chủ quản cũng không nên đòi duyệt các khoản chi này.
Chấm dứt việc đầu tư tài chính theo vị trí, thứ hạng và loại hình trường được nhà nước mặc định của "một thời đã qua", bây giờ là thời của 4.0 rồi, tất cả đều bình đẳng trong việc được nhà nước hỗ trợ, dựa vào sự cố gẳng và các kết quả đầu ra (KPIs) của cơ sở giáo dục.
Xem xét khả năng không cấp phát ngân sách chi thường xuyên cho các trường công lập, mà cấp phát tiền hỗ trợ cho người học để họ nộp học phí vào trường công hoặc trường tư là nơi họ đang học.
Đầu tư công dưới dạng dự án quốc gia vào các chương trình trọng điểm nên đi theo phương thức đấu thầu sản phẩm đầu ra, và như vậy sẽ không còn phân biệt công hay tư trong đầu tư nữa, tất cả dựa vào hiệu quả, tạo ‘sân chơi’ bình đẳng về đầu tư cho tất cả các cơ sở giáo dục, không phân biệt chiếu trên chiếu dưới, công hay tư.
Thứ hai, về chuyên môn
Tự quyết chương trình giảng dạy
Điều 32 Khoản 3 Luật giáo dục đại học 2018 quy định các trường đại học có "quyền tự chủ trong học thuật, trong hoạt động chuyên môn bao gồm ban hành, tổ chức thực hiện tiêu chuẩn, chính sách chất lượng, mở ngành, tuyển sinh, đào tạo, hoạt động khoa học và công nghệ, hợp tác trong nước và quốc tế”.
Điều 32 chưa đề cập đến việc tự chủ trong thiết kế chương trình giảng dạy; thiết nghĩ, nhà nước cũng nên trao quyền này cho các cơ sở giáo dục tự chủ.
Tự kiểm định chất lượng
Việc cho phép các cơ sở giáo dục tự kiểm định chất lượng là nhằm đảm bảo chất lượng của các trường khi được tự chủ, họ phải thường xuyên tự khẳng định chất lượng đại học của họ trước khi có một cơ quan kiểm định chất lượng độc lập đến kiểm định. Việc kiểm định này nên giao cho các tổ chức kiểm định độc lập, không thuộc hay trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Thứ ba, về tổ chức
Giao quyền tự chủ, xóa bỏ cơ chế cơ quan chủ quản cũng cần có lộ trình, phù hợp với điều kiện kinh tế-văn hóa-xã hội của đất nước, của từng ngành nghề và năng lực của từng cơ sở giáo dục, không nên và không thể xóa bỏ cơ chế cơ quan chủ quản đồng loạt cho tất cả các cơ sở giáo dục.
Hội đồng trường của một cơ sở giáo dục là tổ chức thay mặt nhà nước quản trị trường đại học; vì thế, để tiến tới xóa bỏ cơ chế chủ quản, thì thay vì Hiệu trưởng phải báo cáo, xin ý kiến cơ quan chủ quản về tổ chức và nhân sự, Bộ Giáo dục và Đào tạo về đào tạo, Bộ Khoa học công nghệ về nghiên cứu khoa học,... thì nay Hiệu trưởng chỉ cần báo cáo và xin ý kiến Hội đồng trường về các lĩnh vực công tác được nhà nước giao hoặc ủy quyền, tránh tình trạng phải báo cáo, xin phép nhiều cơ quan.
Vì vậy, nhà nước cần qui định rõ "ranh giới": những hạng mục công việc nào hiệu trưởng chỉ cần báo cáo, xin ý kiến Hội đồng trường; những hạng mục công việc nào Hiệu trưởng nhất thiết phải báo cáo, xin ý kiến cơ quan quản lý có thẩm quyền.
Một thiết chế nữa được quy định trong tất cả các văn bản pháp lý hiện hành về tổ chức hoạt động của trường đại học là Hội đồng Khoa học và Đào tạo (Academic Senate, Academic Council), từ xưa đến nay chỉ là tổ chức tư vấn cho hiệu trưởng, hoặc thậm chí có khi nó chỉ còn là tổ chức "tự tư vấn cho chính mình".
Hãy trả lại đúng vị trí, vai trò và trách nhiệm của Hội đồng Khoa học và Đào tạo, đó là tổ chức có thẩm quyền cao nhất về mặt học thuật, về chuyên môn theo thông lệ quốc tế, của cơ sở giáo dục, chứ không phải là hiệu trưởng như hiện nay. Chế độ thủ trưởng trong chuyên môn đã quá lỗi thời.
Thứ tư, về nhân sự
Trường đại học là một tổ chức học thuật, có đặc thù riêng, không thể và không nên lấy các tiêu chuẩn và thước đo của các cơ quan hành chính nhà nước "áp" vào công tác nhân sự của cơ sở giáo dục.
Vì vậy, trong quá trình lựa chọn, bổ nhiệm cán bộ, lấy hiệu lực quản lý, hiệu quả công tác, năng suất lao động làm thước đo quyết định, các tiêu chuẩn hiện hành khác qui định cho cán bộ quản lý các cơ quan hành chính (trình độ lý luận, tuổi tác, nhiệm kỳ, bằng cấp,...) chỉ nên xem là các tiêu chí tham khảo quan trọng.
Bộ chủ quản xem xét và phê chuẩn kết quả bầu chức danh chủ tịch Hội đồng trường; các chức danh quản lý, lãnh đạo còn lại, từ hiệu trưởng trở xuống, giao Hội đồng trường thực hiện.
Nhà nước giao cơ sở giáo dục xem xét việc bổ nhiệm lại, cho kéo dài thời gian giữ chức vụ lãnh đạo quản lý, bổ nhiệm người quá tuổi lao động theo qui định vào các vị trí lãnh đạo, quản lý và chuyên môn, ký hợp đồng lao động với các nhà khoa học nước ngoài,... tùy thuộc vào hiệu lực quản lý, hiệu quả quản trị, hiệu suất công tác của đối tượng xem xét bổ nhiệm, ký hợp đồng.
Các trường đại học có quyền chủ động trong cơ chế sàng lọc cán bộ, viên chức, từ đó mới có thể tạo sự cạnh tranh, thi đua thực sự, tránh sự chây ì, "sáng vác ô đi tối vác về".
Theo Giáo sư Trần Đức Viên, đã đến lúc nhà nước cần qui định rõ "ranh giới": những hạng mục công việc nào hiệu trưởng chỉ cần báo cáo, xin ý kiến Hội đồng trường; những hạng mục công việc nào Hiệu trưởng nhất thiết phải báo cáo, xin ý kiến cơ quan quản lý có thẩm quyền. (Ảnh: TDTU) |
Vì vậy, luật công chức, viên chức, luật lao động, luật thi đua khen thưởng… phải gỡ các điểm còn vướng mắc này. Quyền tự chủ về nhân sự được thể hiện ở việc các trường tự quyết định hợp đồng với các giảng viên, được chuyển từ hợp đồng dài hạn sang hợp đồng có thời hạn, ký hợp đồng với giảng viên người nước ngoài nhằm đòi hỏi các giảng viên và nhà nghiên cứu trong trường luôn cố gắng đảm bảo các chỉ tiêu đề ra chứ không phải ‘an phận’ với tiêu chuẩn vị trí việc làm trọn đời như trước.
Trường công tự chủ hoàn toàn kinh phí, không thực hiện theo chế độ công chức nữa, chế độ viên chức cũng sẽ ngày càng linh hoạt, gần gũi với quan hệ lao động, như là hợp đồng làm việc có dài hạn có ngắn hạn, góp phần làm ‘mờ’ dần vai trò của cơ quan chủ quản.
Đảng ủy luôn là thiết chế lãnh đạo tòan diện và tuyệt đối các lĩnh vực hoạt động của nhà trường, điều đó luôn được khẳng định, các vị trí lãnh đạo chủ chốt từ chủ tịch Hội đồng trường, Hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, trưởng các đơn vị tuyệt đại đa số đều là đảng viên, họ sinh hoạt tại các chi bộ trực thuộc đảng bộ, họ có trách nhiệm tối thượng là sống và làm việc theo Điều lệ đảng, pháp luật của nhà nước, theo nghị quyết của chi ủy, đảng ủy bộ phận và các chỉ thị, nghị quyết của cấp ủy cấp trên.
Đảng ủy tiếp tục lãnh đạo toàn diện và tuyết đối theo kiểu cũ thì không cần thiết có Hội đồng trường, vì sự lãnh đạo của Hội đồng trường sẽ chồng chéo với sự lãnh đạo của đảng ủy.
Đảng lãnh đạo trường đại học dựa trên hệ thống giá trị mà đảng theo đuổi, vì chủ trương của đảng đã được luật hóa qua các văn bản pháp lý, được hiện thực hóa trên thực tế qua vai trò của hiệu trưởng cũng là đảng viên của đảng, người đã được đảng ủy qui hoạch hết sức nghiêm cẩn, được cán bộ viên chức tín nhiệm, chứ không phải dựa vào sự áp đặt bằng quyền lực trực tiếp; còn Hội đồng trường là một thực thể quyền lực.
Sự lãnh đạo của đảng ủy sẽ hỗ trợ những quyết định đúng đắn của Hội đồng trường và ngăn chặn những quyết định không đúng, do đó sẽ tạo sự đồng thuận trong nhà trường.
Nên, về công tác nhân sự, đảng ủy chịu trách nhiệm qui hoạch các chức danh lãnh đạo chủ chốt theo nguyên tắc động, mở và liên tục, và mỗi chức danh đều qui hoạch 2-3 người, một người có thể qui hoạch vào 2-3 chức danh khác nhau.
Hội đồng trường tổ chức giới thiệu, bầu và bổ nhiệm các chức danh này, người nào trong danh sách qui hoạch trúng đều đúng với chủ trương của Đảng, vì những người này đều đã được đảng ủy qui hoạch vào chức danh lãnh đạo, quản lý ấy.
Sau khi có kết quả kiểm phiếu, Hội đồng trường tiến hành công tác bổ nhiệm cán bộ, không cần phải lấy phiếu lại của đảng ủy nữa. Nghĩa là việc thông qua đề xuất nhân sự cấp trường (Hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, trưởng đơn vị trực thuộc) là nhiệm vụ của Hội đồng trường, miễn là các viên chức ấy đã được đảng ủy qui hoạch.
Thứ năm, về cơ quan chủ quản
Chúng ta đang ở ‘thời kỳ chuyển tiếp’ giằng co giữa các thói quen và thể chế cũ với các phong cách và thể chế mới. Trong giáo dục đại học, một trong những thể chế và thói quen cũ tạo lực cản rất lớn đối với việc thực hiện các thể chế và phong cách quản lý mới chính là cơ chế ‘cơ quan chủ quản’ và ‘trường trực thuộc’.
Ở giai đoạn đầu của quá trình xây dựng và phát triển tự chủ đại học, nhà nước (cơ quan chủ quản) đóng vai trò rất quan trọng trong việc tạo lập cơ chế và môi trường cho Hội đồng trường hoạt động đúng với chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ của nó. Muốn nâng cao vai trò của Hội đồng trường, không thể phó mặc cho các trường mà cần có sự chỉ đạo của nhà nước và sự ủng hộ của xã hội.
Chỉ khi Hội đồng trường hoạt động đủ mạnh theo luật định thì khi đó mới có thể xoá bỏ cơ chế chủ quản; và khi ấy các trường đại học công lập Việt Nam sẽ bước sang một trang mới trong quá trình phát triển và hội nhập: trường đại học trở thành pháp nhân độc lập, hoạt động theo quy định của pháp luật, tự chủ và chịu trách nhiệm giải trình về các hoạt động của mình, có khả năng đáp ứng linh hoạt yêu cầu của xã hội và hội nhập quốc tế.
Vì vậy, cần phải làm rõ mối quan hệ giữa Hội đồng trường và cơ quan quản lý có thẩm quyền trong giai đoạn chuyển tiếp và giai đoạn xoá bỏ cơ chế chủ quản. Nếu áp dụng ngay việc bỏ cơ chế chủ quản và trao quyền quản trị và lãnh đạo trường đại học cho Hội đồng trường trong khi Hội đồng trường còn chưa đủ mạnh, thậm chí là vừa non vừa yếu, sẽ rất dễ hình thành nhóm lợi ích kiểm soát hoạt động của nhà trường.
Hơn nữa, khái niệm "chủ quản" ở đây cũng đã đến lúc hiểu không giống với khái niệm chủ quản trong cơ chế tập trung quan liêu thời bao cấp nữa, khi nhận thức của con người, trong đó có nhiều vị "cầm cân nảy mực" cũng đã thay đổi.
Như vậy, cách quản lý của cơ quan chủ quản ở đây là: Sự lãnh đạo của cơ quan chủ quản đối với nhà trường được thực hiện qua vai trò của các đại diện của mình trong Hội đồng trường.
Do đó, Bộ chủ quản chỉ làm các việc:
- Về tổ chức và nhân sự: phê chuẩn kết quả bầu chủ tịch Hội đồng trường; Ủy quyền cho Hội đồng trường tổ chức bầu hoặc thi tuyển và bổ nhiệm các chức danh lãnh đạo, quản lý còn lại, từ Hiệu trưởng trở xuống;
Giao cơ sở giáo dục toàn quyền trong việc thành lập mới, giải thể, sáp nhập đơn vị trực thuộc; tuyển dụng, xác định vị trí việc làm, định biên, chấm dứt hợp đồng, thi đua khen thưởng, kỷ luật, lên lương, hạ lương, xây dựng quy chế hoạt động của Hội đồng trường, ký hợp đồng lao động với người nước ngoài,...;
- Xây dựng chính sách hỗ trợ, kể cả hỗ trợ về tài chính và đầu tư, để các trường phát huy cao nhất quyền làm chủ, lợi thế so sánh và các nguồn lực của họ trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị với hiệu suất và hiệu quả cao nhất;
Và không can thiệp vào các công việc và các hoạt động thường ngày của cơ sở giáo dục, thay kiểm soát "đầu vào" bằng giám sát kết quả "đầu ra" của cơ sở giáo dục. Nhờ thế, nhà trường hoàn toàn thoát ra khỏi cơ chế quan liêu, hành chính nặng nề của cơ chế chủ quản cũ.
Thứ sáu, cân nhắc thận trọng việc kiêm nhiệm các chức vụ bí thư cấp ủy, chủ tịch Hội đồng trường và Hiệu trưởng
Trong hệ thống giáo dục quốc dân hiện nay đang tồn tại một thực tế: Có cơ sở giáo dục 3 vị trí lãnh đạo, quản trị và quản lý chủ chốt là bí thư, chủ tịch Hội đồng trường, Hiệu trưởng do 3 người đảm nhiệm, có trường bí thư kiêm hiệu trưởng, có trường bí thư kiêm chủ tịch Hội đồng trường, có cơ sở giáo dục một người nắm giữ luôn cả 3 vị trí này.
Thực tế cho thấy, chủ tịch Hội đồng trường kiêm Hiệu trưởng khiến quyền lực của hiệu trưởng càng lớn và dễ dẫn đến tình trạng thiếu dân chủ vì "vừa đá bóng vừa thổi còi" mà không vấp phải một "phản biện" hay một sự "cân đối quyền lực" nào. Ở những cơ sở giáo dục này chỉ có dân chủ hình thức;
Còn nếu một người kiêm nhiệm luôn cả 3 chức vụ, gần như chế độ "thủ trưởng" thời chiến, thì tốt nhất là bỏ luôn thiết chế Hội đồng trường, vì sự tồn tại Hội đồng trường ở đây chỉ là minh họa cho một thứ dân chủ không có thật.
Hơn nữa Hội đồng trường là cơ quan quyền lực, lãnh đạo cụ thể, Hội đồng trường của một trường cũng đóng vai trò như "quốc hội" của cơ sở giáo dục, còn đảng ủy là cơ quan lãnh đạo về chính trị và tư tưởng.
Trong quá trình chuyển đổi, tiến tới 3 vị trí này do 3 nhân vật đảm nhiệm như ở các nước phát triển, bí thư đảng ủy có kiêm chủ tịch hội đồng hoặc kiêm hiệu trưởng hay không, nên để cơ sở giáo dục chủ động lựa chọn, phù hợp với điều kiện thực tế của từng cơ sở giáo dục, vì mỗi cơ sở giáo dục có đặc điểm khác nhau, miễn là cơ sở giáo dục ấy là một tập thể đoàn kết, vững mạnh, phát triển, được quản trị và quản lý tốt, đào tạo và nghiên cứu khoa học có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu xã hội.
Về nguyên tắc và theo xu hướng chung của tiến bộ xã hội, để có thể thực hiện giám sát hiệu quả đòi hỏi các vị trí lãnh đạo, quản trị và quản lý cao nhất của ba tổ chức này phải tách biệt về nhân sự.
Việc kiêm nhiệm hai hoặc cả ba vị trí có thể giúp tập trung quyền lực tối đa theo kiểu tập quyền "thời chiến" theo chế độ "thủ trưởng", hay ở đâu đó của các cơ quan quản lý hành chính, không nên áp dụng trong trường đại học, nơi có những đặc điểm riêng của môi trường sư phạm và học thuật; điều đó có thể sẽ dẫn đến các rủi ro không chỉ cho nhà trường, cho nhân sự lãnh đạo, mà còn cho cả hệ thống giáo dục đại học.
Nếu nhà nước thấy một cá nhân có thể gánh vác cùng một lúc cả 3 vị trí chủ chốt trong một cơ sở giáo dục là phù hợp với bối cảnh nào đó, thì cũng cần đưa ra các cơ sở khoa học và thực tiễn của quyết định này, trên cơ sở đó, khuyến khích các cơ sở giáo dục khác cùng học tập và làm theo.