Sẽ có thông tư liên kết đào tạo trực tuyến, hỗn hợp với nước ngoài

21/07/2020 06:13
Thùy Linh
0:00 / 0:00
0:00
GDVN- Bà Nguyễn Thu Thủy, Quyền Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo có một số chia sẻ về chính sách liên kết đào tạo với nước ngoài tại Việt Nam.

Bà có thể cho biết số lượng các chương trình liên kết đào tạo quốc tế giáo dục đại học tại Việt Nam hiện nay?

Theo báo cáo tính đến ngày 20/7/2020 của các trường gửi về Bộ Giáo dục và Đào tạo, có tổng số 352 chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài đang hoạt động. Trong đó, ở bậc đại học có 195 chương trình, thạc sĩ có 150 chương trình và tiến sĩ có 07 chương trình.

Theo báo cáo tính đến ngày 20/7/2020 của các trường gửi về Bộ Giáo dục và Đào tạo, có tổng số 352 chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài đang hoạt động. (Ảnh: Viện đào tạo quốc tế- Học viện Tài chính)

Theo báo cáo tính đến ngày 20/7/2020 của các trường gửi về Bộ Giáo dục và Đào tạo, có tổng số 352 chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài đang hoạt động. (Ảnh: Viện đào tạo quốc tế- Học viện Tài chính)

Các trường đại học của Cộng hòa Pháp có 91 chương trình (Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội (hay còn gọi là Trường Đại học Việt - Pháp) có 44 chương trình với các đối tác của Pháp);

Vương quốc Anh: 71 chương trình; Hoa Kỳ: 38 chương trình; Australia: 27 chương trình; Cộng hòa liên bang Đức: 20 chương trình (Trường Đại học Việt Đức có 11 chương trình); Đài Loan: 19 chương trình; Trung Quốc: 10 chương trình; Hàn Quốc: 8 chương trình, ...

Hợp tác quốc tế đóng vai trò rất quan trọng trong giáo dục đại học. Vậy, Việt Nam đã có những chính sách nào nhằm thúc đẩy hoạt động này, thưa bà?

Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã nêu rõ:

Chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục, đào tạo; mở rộng liên kết đào tạo với những cơ sở đào tạo nước ngoài có uy tín, chủ yếu trong giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp, đồng thời quản lý chặt chẽ chất lượng đào tạo;

Có cơ chế khuyến khích các tổ chức quốc tế, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài tham gia hoạt động đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học và công nghệ ở Việt Nam;

Tăng cường giao lưu văn hóa và học thuật quốc tế; có chính sách hỗ trợ, quản lý việc học tập và rèn luyện của học sinh, sinh viên Việt Nam đang học ở nước ngoài và tại các cơ sở giáo dục, đào tạo có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam.

Luật Giáo dục đại học năm 2012 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học năm 2018 đã tạo hành lang pháp lý, đẩy mạnh tự chủ đại học, tự chủ học thuật và hợp tác, liên kết đào tạo với nước ngoài.

Tại Điều 45, Luật sửa đổi quy định rõ các cơ sở giáo dục đại học được tự chủ cao trong hoạt động liên kết đào tạo với nước ngoài.

Đồng thời, Luật này quy định trách nhiệm của Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo về hợp tác quốc tế.

Theo đó, phải ban hành các chính sách phù hợp với chiến lược phát triển giáo dục đại học; tăng cường quản lý về liên doanh, liên kết giáo dục đại học với nước ngoài; chính sách đầu tư, chế độ đãi ngộ nhằm thu hút các nhà khoa học và người Việt Nam ở nước ngoài tham gia hoạt động tài trợ, giảng dạy, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ;…

Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã ban hành và tham mưu Chính phủ ban hành các Nghị định, Thông tư nhằm thúc đẩy hợp tác quốc tế trong giáo dục và đào tạo.

Sắp tới, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ ban hành Thông tư quy định về liên kết đào tạo với nước ngoài theo hình thức trực tuyến và hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến để góp phần thúc đẩy hoạt động này.

Bà có thể cho biết những ưu điểm và thách thức trong hoạt động liên kết đào tạo với nước ngoài của các cơ sở giáo dục đại học hiện nay?

Hiện nay, có 3 ưu điểm chính mà các chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài mang lại.

Thứ nhất, người học được theo học chương trình do phía cơ sở giáo dục đại học của nước ngoài cung cấp – các chương trình đã được bảo đảm chất lượng bởi cơ quan có thẩm quyền về kiểm định chất lượng giáo dục của nước sở tại. Chương trình học theo hệ tín chỉ của nước ngoài và người học được cấp văn bằng của nước ngoài.

Thứ hai, người học được tiếp cận những kiến thức và kỹ năng mới nhất, bắt kịp với sự phát triển của khoa học và công nghệ, với đa số các chương trình này người học được sử dụng tài nguyên của trường đối tác bằng việc truy cập vào hệ thống tài liệu, học liệu ở thư viện điện tử của các trường đối tác nước ngoài.

Thứ ba, các chương trình liên kết đào tạo góp phần phát triển, nâng cao năng lực quản lý điều hành, giảng dạy và nghiên cứu khoa học của các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam; góp phần đẩy mạnh quốc tế hóa giáo dục đại học Việt Nam, hướng tới các chuẩn mực quốc tế.

Tuy vậy, cũng có những thách thức đối với các chương trình liên kết đào tạo.

Về khía cạnh tuyển sinh cho chương trình theo mô hình này, với sự gia tăng các chương trình đào tạo trong nước nhưng đào tạo hoàn toàn bằng tiếng Anh (như các chương trình đào tạo tiên tiến, chương trình đào tạo chất lượng cao, kỹ sư tài năng…), đã tạo nên một sự cạnh tranh đáng kể, nhưng lành mạnh.

Bên cạnh đó, việc đẩy mạnh hoạt động bảo đảm chất lượng và kiểm định chất lượng giáo dục đại học cũng sẽ là các thách thức, nhưng đồng thời là động lực để các bên đối tác cùng nỗ lực nâng cao chất lượng đào tạo của chương trình.

Ngoài ra, sự xuất hiện của các cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cũng là những luồng gió mới để gia tăng cạnh tranh lành mạnh trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế - xã hội, cung cấp nhân lực cho cả thị trường trong nước và quốc tế.

Căn cứ các quy định hiện hành, bà có lưu ý gì cho các trường của Việt Nam và các sinh viên theo học chương trình đào tạo giáo dục đại học hợp tác, liên kết đào tạo giữa trường đại học của Việt Nam và các trường đại học của nước ngoài?

Đối với các cơ sở giáo dục đại học tại Việt Nam, các trường cần thực hiện đúng quy định tại Luật Giáo dục đại học đã được sửa đổi bổ sung năm 2018 (lưu ý Điều 45), đồng thời thực hiện đúng các quy định của Chính phủ tại Nghị định số 86/2018/NĐ-CP.

Bao gồm, phê duyệt chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài theo thẩm quyền, lựa chọn trường đối tác nước ngoài, chương trình bảo đảm về uy tín, kiểm định chất lượng (hoặc được cơ quan có thẩm quyền về giáo dục nước ngoài cho phép đào tạo và cấp bằng giáo dục đại học);

Thực hiện đầy đủ theo thỏa thuận hợp tác, hợp đồng, xây dựng đề án, bảo đảm cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên đáp ứng quy định về chuyên môn trình độ và năng lực ngoại ngữ để giảng dạy hoàn toàn bằng ngoại ngữ, biện pháp bảo đảm chất lượng giáo dục, quyền lợi của người học, quy định về quản lý điều hành, xây dựng chương trình đào tạo, việc quản lý rủi ro,…

Đặc biệt, chuẩn đầu ra của các chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài không được thấp hơn chuẩn đầu ra quy định bởi các văn bản pháp luật của Việt Nam.

Người học có dự định theo học chương trình liên kết đào tạo giữa cơ sở giáo dục đại học Việt Nam và cơ sở giáo dục đại học nước ngoài cần lưu ý, các chương trình liên kết đào tạo được thực hiện hoàn toàn bằng ngoại ngữ không qua phiên dịch (đa số các chương trình thực hiện bằng tiếng Anh).

Đối với trình độ đại học, thạc sĩ, tiến sĩ, các chương trình liên kết đào tạo sẽ quy định cụ thể trình độ ngoại ngữ đầu vào nhưng ít nhất phải có trình độ Bậc 4 theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam hoặc tương đương (tương đương trình độ B2 theo Khung tham chiếu chung Châu Âu hoặc IELTS 5.5-6.5), quy định cụ thể tại Điều 16 của Nghị định số 86. Do vậy, người học phải chuẩn bị đầy đủ về năng lực, kỹ năng ngoại ngữ tương ứng.

Người học cần chú ý lựa chọn chương trình liên kết đào tạo hợp pháp là các chương trình đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt bằng một Quyết định cho phép thực hiện liên kết đào tạo (Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt hoặc các cơ sở giáo dục đại học tự chủ phê duyệt theo quy định của Luật Giáo dục đại học và Điều 22 Nghị định số 86).

Trân trọng cảm ơn bà!

Thùy Linh