South China Morning Post ngày 5/11/2018 đưa tin, giới chức quốc phòng đảo Đài Loan cho biết chính quyền đảo này đang xem xét việc cho tàu chiến Mỹ sử dụng đảo Ba Bình thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam (Đài Loan và Bắc Kinh gọi là đảo Thái Bình, phương tây gọi là Itu Aba).
Nghị sĩ Johnny Chiang của Quốc dân đảng đặt vấn đề rằng, nếu Washington yêu cầu Đài Bắc cho Hải quân Mỹ sử dụng đảo Ba Bình cho mục đích đảm bảo an ninh khu vực, thì quan điểm của lực lượng quốc phòng đảo Đài Loan thế nào.
Người đứng đầu lực lượng quốc phòng đảo Đài Loan ông Yan De-fa cho hay, đây là một giả thuyết và Đài Loan cũng có thể "cho phép" tàu chiến Mỹ neo đậu tại đảo Ba Bình để phục vụ cho các hoạt động nhân đạo.
Tiến sĩ Trần Công Trục, ảnh do tác giả cung cấp. |
Tuy nhiên, nếu hoạt động này ảnh hưởng đến an ninh, ổn định khu vực, Đài Loan sẽ xem xét lại.
Thông tin Mỹ muốn truy cập và hiện diện tại đảo Ba Bình, thậm chí là muốn thuê hòn đảo này đã xuất hiện từ lâu.
Câu hỏi được đặt ra khi tiếp cận thông tin nói trên là:
1. Mục đích thật sự của khả năng Washington yêu cầu Đài Bắc cho tàu chiến Mỹ sử dụng đảo Ba Bình là gì?
2. Tại sao trước khả năng đề nghị nói trên của Mỹ, với tư cách là đồng minh chiến lược không thể thiếu của vùng lãnh thổ Đài Loan đang đứng trước nguy cơ bị đại lục "thu hồi", Đài Bắc lại tỏ ra thận trọng, cân nhắc?
Để tìm hiểu và trả lời cho những băn khoăn này, chúng tôi xin được lý giải như sau:
Về câu hỏi thứ nhất: Xét về điều kiện tự nhiên và phương diện quân sự, chúng tôi chia sẻ với nhận xét của chuyên gia Lã Lễ Thi, cựu Hạm trưởng Tân Giang Hạm của hải quân Đài Loan, nói với CNA rằng:
Do độ sâu khu vực cầu cảng đảo Ba Bình hạn chế, nên bất luận là tàu khu trục lớp Arleigh Burke hay tàu tuần dương lớp Ticonderoga của Mỹ đều khó có thể neo đậu tại Ba Bình.
Mặt khác, khu vực tàu chiến Mỹ neo đậu đều có hệ thống cung cấp dầu, nước ngọt hoàn thiện và không cần phải dựa vào đảo Ba Bình, các dịch vụ y tế cho quân nhân, thủy thủ Mỹ cũng vậy.
Ngoài ra, Trung Quốc đã bố trí tên lửa phòng không và tên lửa chống hạm tại các căn cứ quân sự xây dựng (bất hợp pháp) ở Su Bi, Vành Khăn... có tầm bắn bao trùm đảo Ba Bình, điều này sẽ làm giảm khả năng Mỹ đưa chiến hạm đến đây…
Vậy thì tại sao nghị sĩ Johnny Chiang lại đặt vấn đề Mỹ yêu cầu Đài Loan cho sử dụng đảo Ba Bình làm căn của hậu cần cho hoạt động của các chiến hạm Mỹ đang hoạt động ở Biển Đông vào thời điểm hiện nay?
Câu trả lời thích hợp có lẽ đây chỉ là thông điệp thể hiện quyết tâm chính trị của Mỹ trong việc duy trì thường trực lực lượng Hải quân của mình tại Biển Đông, nhất là ở khu vực quần đảo Trường Sa.
Nó nhằm tạo ra thế trận cân bằng sức mạnh với lực lượng quân sự của Trung Quốc đang hiện diện trên một số căn cứ quân sự của Trung Quốc tại một số thực thể ở quần đảo Trường Sa mà Trung Quốc đã đánh chiếm và bồi đắp thành đảo nhân tạo kể từ sau năm 1988.
Phải chăng đó cũng là động thái mới mà Mỹ muốn công khai chủ trương sẽ can dự vào loại tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, nhằm trực tiếp thách thức và đe dọa tham vọng của Trung Quốc muốn độc chiếm Biển Đông và quyết tâm "thu hồi" Đài Loan, nhằm thu hồi giang sơn về một mối mà Đảng Cộng sản Trung Quốc đã nung nấu, ấp ủ từ hơn nửa thế kỷ nay…
Về câu hỏi thứ 2: Theo chúng tôi, sự “thận trọng cân nhắc” của Đài Bắc có thể xuất phát từ những lý do sau đây:
Sự có mặt của Đài Loan ở đảo Ba Bình cho đến thời điểm hiện nay là kết quả của quá trình xâm chiếm lãnh thổ của Việt Nam bằng vũ lực.
Cụ thể, năm 1946, lợi dụng việc giải quân đội Nhật Bản thua trận theo lệnh của đồng minh sau thế chiến II, chính quyền Trung Hoa Dân quốc đã đưa lực lượng ra chiếm đóng nhóm phía Đông Hoàng Sa và đảo Ba Bình, quần đảo Trường Sa.
Trong dịp này, một quan chức ngành địa chất của Đài Loan có mặt trên chiến hạm Thái Bình do Lâm Tuân chỉ huy đã phóng tay vẽ ra cái “lưỡi bò” liếm trọn Biển Đông, để rồi phía Trung Quốc ngày nay coi “phóng tác” này là “di sản” lịch sử của Tổ tiên họ.
Năm 1949, khi Trung Hoa Dân quốc bị đuổi khỏi Hoa lục, họ phải rút luôn số quân đang chiếm đóng ở quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Năm 1956, quân đội Đài Loan lại tái chiếm đảo Ba Bình và cố thủ tại đó cho đến nay.
Trung Quốc đe dọa nước khác ở Biển Đông đã thành chuyện cơm bữa |
Hành động xâm chiếm bằng vũ lực này cũng được Bắc Kinh “phát huy” năm 1956, đối nhóm phía Đông Hoàng Sa, năm 1974, đối với nhóm phía Tây Hoàng Sa và năm 1988, đối với 6 thực thể ở phía Tây - Bắc Trường Sa…
Sự thật lịch sử này đã cho thấy, mặc dù giữa Bắc Kinh và Đài Bắc luôn luôn tồn tại sự khác biệt về lập trường giai cấp, thể chế chính trị và đường lối bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước, nhưng về tư tưởng bá quyền, tham vọng bành trướng lãnh thổ, nhất là yêu sách chủ quyền và phương thức tiến hành để thực hiện yêu sách đó trong Biển Đông về cơ bản là thống nhất, thậm chí giữa Bắc Kinh và Đài Bắc luôn thể hiện lập trường “kẻ tung, người hứng”, “tiền hô, hậu ủng”.
Tuy Đài Loan và Hoa Kỳ là đồng minh chia sẻ hệ giá trị cốt lõi, nhưng trên phương diện địa - chiến lược và đặc biệt là lợi ích quốc gia, dân tộc, Đài Bắc phải cân nhắc xem việc này có giúp góp phần duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông, có phù hợp với “lợi ích cốt lõi” của cộng đồng người Hán hay không?
Phải chăng đây cũng chính là hoàn cảnh buộc Đài Loan với tư cách chưa phải là một thành viên chính thức của Liên Hợp Quốc phải tính đến và cân nhắc lợi, hại trước yêu cầu nói trên của Mỹ về đối nội cũng như đối ngoại?