Cảm nhận đặc biệt: Tết vẫn chuyện tết...

22/01/2012 06:00
PHONG LÊ / SGTT
Xuân 2012  - Bởi không phải lúc nào cũng có tết cho người lớn, nếu như sự mưu sinh là một nỗi lo âu lớn, vắt kiệt sức người.

Đó là tình cảnh chung của nhiều tầng lớp nhân dân lao khổ trước Cách mạng tháng Tám.

Thế nhưng dẫu có nhọc nhằn, túng thiếu đến mấy, ngày tết, đối với trẻ, cũng phải hiểu là một chờ đợi, một chút vui, trong một tấm áo mới, dẫu chỉ là nâu sồng; trong một miếng ăn ngon hơn ngày thường, dẫu chỉ là vài miếng thịt, mẩu bánh chưng, góc đĩa chè kho... Và cũng có thể là một chút quà mừng tuổi, dẫu chỉ là đơn vị nhỏ nhất, hào và xu.

Đu quay ngày tết năm 1895. Ảnh: Cedrasemi
Đu quay ngày tết năm 1895. Ảnh: Cedrasemi

Và đồ chơi cho ngày tết. Ôi, sao mà thiếu được đồ chơi! Tuổi nhỏ của tôi thường bám gấu áo mẹ đi chợ tết. Phiên chợ cuối cùng trong năm đông vui, rộn rịp, kéo dài hơn chợ thường, được họp vào ngày 20 tháng chạp mà không khí và sắc màu của nó đã được ghi lại như trong thơ Đoàn Văn Cừ.

Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon

Mỗi lần đọc thơ Đoàn Văn Cừ tôi thường vận cái “thằng cu áo đỏ” ấy vào tôi, dẫu tôi không có áo đỏ, mà chỉ có áo nâu non do chính mẹ may cho với các đường chỉ nổi lên như cuộc hành quân của một đàn kiến gió.

Trong cái tưng bừng nhộn nhịp suốt một ngày, tôi cứ bám mẹ mà lượn khắp các hàng, và cuối cùng, trước khi ra về, thế nào cũng được mẹ mua cho ba loại đồ chơi. Đó là một bánh pháo tép kèm vài quả pháo đùng cùng một bao diêm. Là dăm con gà đất bôi phẩm xanh đỏ to bằng ba ngón tay, gắn ở mỏ một lưỡi gà, thổi lên toe toe cái tiếng gáy của một chú trống choai.

Và cuối cùng là chùm trống bỏi với hai mặt xanh đỏ to bằng lòng bàn tay, gắn ở tang trống mấy cái nùn cứng, mỗi lần lắc lắc, trống lại phập phùng một điệu nhạc ròn, nếu lắc nhiều chỉ vài ngày là thủng. Tất cả một cuộc đi chợ, suốt một ngày, mang về được mấy thứ đồ chơi, cứ năm nào cũng thế.

Nhưng vẫn còn chưa h ết. Bởi chiều 29 tết còn một cuộc mổ lợn chung cho mấy nhà. Tiếng lợn eng éc một âm điệu vui trong cái chiều 29 thường có gió bấc và mưa bay làm náo động cả xóm thôn. Và đàn trẻ con, không đứa nào không hong hóng, cướp cho được cái bong bóng lợn.

Cái bong bóng nóng hổi nhớp nháp trên tay được trộn với gio nhồi cho thật sạch và thật mỏng. Rồi được thổi hơi vào thành một quả bóng to. Quả bóng được chế xuất từ bóng đái của lợn ấy rồi sẽ làm rậm rịch các sân chơi ngày tết cho đám con trai nô nhảy, thay cho bóng bưởi lúc này đã hết mùa.

Tết còn được náo nức chờ đợi ở nồi bánh chưng vào chiều 29 hoặc 30, và các loại bánh khác như bánh ít, bánh mật, bánh gai, bánh lọc, bánh tổ, bánh ú, bánh gio... và chè kho. Nồi bánh làm ấm không gian mỗi gia đình, và trẻ con được hưởng sớm hơn cả hương vị tết ở cái bánh gói riêng cho chúng, gọi là để thử, thử trước ông bà, gia tiên.

Đấy là cái ăn ngon nhất trước khi vào tết thường kéo dài trong ba ngày.

Còn vào tết thì chẳng mấy ai quan tâm đến sự ăn, kể cả trẻ con. Bây giờ chuyển sang sự đam mê được mừng tuổi, đốt pháo, ra sân đình xem lễ, và đánh tam cúc hoặc bài mười... ăn tiền.

Tết suốt tuổi đời mình

Tôi không tin đến một lúc nào đó dân tộc ta hết chuyện đón tết.

Cùng với số tuổi tôi có, tôi cũng có bấy nhiêu năm hồi hộp đón tết, trừ vài năm ở tuổi chào đời – có lẽ chỉ dưới ba năm. Cho đến tuổi lên ba – đi được, nói được, tôi đã cảm nhận được cái bận rộn, ríu rít của tết.
Thật thú vị và may mắn khi được hình dung một cách cụ thể và sống động đến thế những phiên chợ tết trong thơ Đoàn Văn Cừ, cùng với hình ảnh ông đồ bán câu đối tết trong thơ Vũ Đình Liên.

Nếu hiểu sự tù đọng của xã hội phương Đông là kéo dài hàng ngàn năm thì chính Đoàn Văn Cừ, Vũ Đình Liên là người có công đầu (và có lẽ là duy nhất) ghi nhận và định hình lại được không ít sắc màu và dáng nét riêng của tết, không phải chỉ một thời Thơ mới, mà là của cả một thời xưa, của cả “muôn năm cũ”.
Nửa thế kỷ sau Thơ mới, vẫn có những bài thơ tết, nhưng với thế hệ tôi, tôi thấy ít có bài đọng lại được nơi tâm trí. Còn tết ngoài đời thì hàng năm vẫn đến, với mưa bụi, với sắc đào, với nao nức của tuổi thơ và bận rộn của người lớn; với những bâng khuâng và hồi hộp trong mong đợi những điều tốt lành được “bằng năm bằng mười” năm ngoái, khi vạn vật vẫn trở lại chu trình quen thuộc của nó để làm nên cái ổn định, cái trường tồn của tết; còn cuộc đời, chuyện đời của nhân quần và xã hội thì chứng kiến biết bao là đổi thay, là xáo trộn.
Tết, ở bất cứ lứa tuổi nào của thế hệ tôi, cũng chẳng thể nào mất đi sắc màu ấm áp và thân thương của nó, ngay cả trong chiến tranh – những ba mươi năm.

Ba mươi năm chiến tranh, nhất là trong cuộc thứ hai – chống Mỹ, cả dân tộc vẫn đều đặn đón tết, dẫu bất cứ hoàn cảnh nào, cả trong đạn bom, cả trong đối mặt với cái chết. Bên những mong đợi cổ truyền, bỗng có thêm niềm vui chờ đợi những bài thơ xuân chúc tết của Bác Hồ. Những bài thơ xuân của “Người là Cha, là Bác, là Anh” (Tố Hữu) đã truyền biết bao sức mạnh cho toàn dân tộc, cả Bắc và Nam, khiến cho mọi gian nan, mọi thiếu nghèo vẫn không thể làm giảm sự trông đợi và hy vọng của con người cho độc lập và tự do, cho an khang và thịnh vượng.

Hoà bình, trong triền miên những lo toan của đời thường, bỗng lại đến cái phút tạm ngưng lại mọi lo toan, để chỉ lo toan cho cái tết. Những khoản tiền để dành – trong đó, với trẻ em, có vai trò những con lợn đất. Những mua sắm, và cái gì cũng phải mới. Những hành trình gần như bất tận của vào – ra, đi – về, xuôi – ngược khiến cho không năm nào là không túi bụi, vất vả – chuyện tàu xe để cho con người đến được với mục tiêu thiêng liêng là gia đình và đoàn tụ.

Hoà bình, hết tiếng súng để chỉ còn nghe tiếng pháo – “đì đẹt ngoài sân tràng pháo chuột”. Pháo chuột, pháo giây, pháo tép, và rất thỉnh thoảng, một cú pháo đùng, chỉ để gây giật mình, chứ không gây tai nạn, trong cái đêm trừ tịch mênh mông một cuộc giao hoà vĩ đại giữa con người với vũ trụ.

Sau cỗ tết tất niên chiều 30, kết thúc mọi lo toan và bận rộn của một năm, trong mỗi căn nhà ấm cúng hơn ngày thường, con người lại có một chờ đợi mới – chờ đợi tiếng chuông điện thoại đổ hồi vào giờ khắc giao thừa, để cho mọi khoảng cách xa – gần của không gian tuyệt đối được xoá bỏ. Rồi sáng mồng 1 đến, trong giấc ngủ dậy muộn giữa im ắng đến tịch mịch của không gian, trong rón rén và thành kính thắp hương trên bàn thờ gia tiên, bỗng lại vẳng nghe xa gần tiếng rao lẻ loi của người bán muối – “Ai muối ơ?”, như là một đánh dấu cho sự tiếp chuyển không ngừng nghỉ của cuộc sống cần lao “gừng cay muối mặn”...

Hơn hai phần ba thế kỷ của đời tôi, đón tết trước là chờ đón cho mình trong bận rộn của bố mẹ, ông bà. Rồi là chờ đón và chuẩn bị cho con cái, trong vai bố mẹ. Và bây giờ là cho cháu, trong vai ông bà, cả cháu nội ở gần và cháu ngoại ở xa…

Cũng vẫn một trông chờ ấy, một bâng khuâng ấy, một hồi hộp ấy, một bận rộn ấy! Chẳng thể giải thích, và cũng không cần giải thích cái vĩnh cửu, muôn đời của tết trong kết đọng của mọi ước nguyện tốt lành; trong bất tận những ao ước, những khao khát của mọi người dân Việt ở bất cứ đâu cho giao hoà, gắn nối và đoàn tụ.

Tây Hồ, ngày áp tết Nhâm Thìn – 2012

PHONG LÊ / SGTT