Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế tiền thân là Trường Đại học Tổng hợp Huế, được thành lập theo Quyết định số 426/TTg ngày 27-10-1976 của Thủ tướng chính phủ trên cơ sở sáp nhập Đại học Khoa học và Đại học Văn khoa của Viện Đại học Huế trước đây. Năm 1994, theo yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước, Chính phủ ký ban hành Nghị định 30/CP ngày 04/4/1994, về việc tổ chức sắp xếp lại mạng lưới các trường đại học, Trường Đại học Tổng hợp Huế đổi tên thành Trường Đại học Khoa học thuộc Đại học Huế.

Theo thông tin đăng tải trên website, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế có sứ mạng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, nghiên cứu cơ bản và ứng dụng, chuyển giao công nghệ về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội - nhân văn và kỹ thuật - công nghệ đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Tầm nhìn đến năm 2030 trở thành trường đại học nghiên cứu đa ngành, đa lĩnh vực tiêu biểu bậc nhất ở miền Trung - Tây Nguyên, là cơ sở đào tạo có uy tín ở Việt Nam và khu vực Đông Nam Á.

Hiện Phó Giáo sư, Tiến sĩ Võ Thanh Tùng là Hiệu trưởng nhà trường; Tiến sĩ Bùi Quang Vũ là Chủ tịch Hội đồng trường.

Sinh viên chưa tốt nghiệp chủ yếu do chưa đạt chuẩn ngoại ngữ

Tiêu chí 5.3, Thông tư số 01/2024/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo về Chuẩn cơ sở giáo dục đại học quy định: Tỷ lệ tốt nghiệp, được xác định bằng tỷ lệ người học tốt nghiệp trong thời gian không chậm quá 2 năm so với kế hoạch học tập chuẩn, không thấp hơn 60%; tỷ lệ tốt nghiệp đúng hạn không thấp hơn 40%.

Theo Báo cáo Công khai chất lượng giáo dục năm học 2024-2025, trong bảng chỉ số đánh giá về tuyển sinh và đào tạo năm 2024, nhà trường có tổng 4.603 sinh viên đang theo học và 511 sinh viên tốt nghiệp hệ đại học chính quy.

Tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp của nhà trường đạt 65,5%, giảm 3,4% so với năm 2023. Tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đúng hạn là 37,9%, giảm 48,4% so với năm 2023.

Về tình hình việc làm của sinh viên sau tốt nghiệp, tỷ lệ người tốt nghiệp có việc làm đúng chuyên môn trong 2 năm 2023 và 2024 lần lượt đạt 84,3% và 83,97%.

ty-le-sv-tot-nghiep.png
Các chỉ số đánh giá về tuyển sinh và đào tạo đối với đào tạo đại học của Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế. Ảnh chụp màn hình.

Lý giải nguyên nhân khiến tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đúng hạn còn chưa cao, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Võ Thanh Tùng - Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế cho biết: "Nhà trường hiện đang triển khai đào tạo trình độ đại học theo hệ thống tín chỉ. Sinh viên được công nhận tốt nghiệp khi tích lũy đủ số tín chỉ theo chương trình đào tạo với điểm trung bình tích lũy từ 2.0 trở lên, đồng thời đáp ứng các điều kiện sau: hoàn thành chương trình Giáo dục thể chất; có chứng chỉ Giáo dục quốc phòng - an ninh; đạt chuẩn ngoại ngữ bậc 3/6 theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dành cho Việt Nam; đạt trình độ tin học tương đương Chuẩn kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin cơ bản (đối với các ngành không thuộc lĩnh vực máy tính và công nghệ thông tin).

Qua thống kê dữ liệu, nhà trường nhận thấy nguyên nhân sinh viên tốt nghiệp không đúng tiến độ chủ yếu xuất phát từ các yếu tố sau:

Thứ nhất, nguyên nhân phổ biến nhất là sinh viên chưa đạt chuẩn ngoại ngữ bậc 3/6 theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dành cho Việt Nam. Có thể nói, năng lực ngoại ngữ vẫn là điểm yếu của sinh viên khu vực miền Trung nói riêng và sinh viên Việt Nam nói chung. Mặc dù đã được học ngoại ngữ ở bậc trung học phổ thông, nhiều sinh viên khi vào đại học vẫn còn hạn chế, đặc biệt là sinh viên đến từ vùng có điều kiện kinh tế khó khăn.

Thứ hai, một số sinh viên chưa tích lũy đủ tín chỉ theo quy định của chương trình đào tạo, đặc biệt ở các ngành thuộc lĩnh vực STEM, nơi đòi hỏi tư duy logic và khả năng giải quyết vấn đề cao. Ngoài ra, một tỷ lệ nhỏ sinh viên chưa đáp ứng yêu cầu về chứng chỉ Giáo dục quốc phòng - an ninh hoặc kỹ năng công nghệ thông tin cơ bản".

Để giúp người học tiếp cận cơ hội việc làm đúng chuyên ngành sau tốt nghiệp, nhà trường luôn nỗ lực tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sinh viên trong học tập và rèn luyện, giúp sinh viên hoàn thành chương trình đào tạo, phát triển toàn diện và sớm thích ứng với môi trường nghề nghiệp.

Bên cạnh đó, nhà trường đẩy mạnh hợp tác với các doanh nghiệp trong và ngoài nước, nhằm tạo cơ hội cho sinh viên thực tập, trải nghiệm môi trường làm việc thực tế, rèn luyện tác phong chuyên nghiệp và nâng cao kỹ năng nghề nghiệp.

Số công bố khoa học đạt Chuẩn nhưng tỷ trọng thu giảm

Theo bảng Các chỉ số đánh giá về hoạt động khoa học và công nghệ của Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế cho thấy, số công bố khoa học/giảng viên của trường là 0,89 bài/năm; số công bố WoS, Scopus/giảng viên là 0,38 bài/năm.

Đồng thời, trong năm 2024, nhà trường tổng 28 đề tài nghiên cứu khoa học; trong đó có 7 đề tài nghiên cứu cấp Bộ và 21 đề tài nghiên cứu cấp cơ sở. Tổng số bài báo khoa học được Hội đồng Giáo sư nhà nước công nhận không nằm trong danh mục WoS, Scopus và bằng độc quyền giải pháp hữu ích là 100 bài; tổng số công bố WoS, Scopus tất cả các lĩnh vực là 98 bài; 1 bằng độc quyền sáng chế.

Chia sẻ về kinh nghiệm trong việc nâng cao chất lượng và số lượng đề tài nghiên cứu khoa học, Hiệu trưởng nhà trường cho biết: "Nhà trường luôn xác định rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa hoạt động nghiên cứu khoa học và công bố kết quả nghiên cứu. Bên cạnh các đề tài được hỗ trợ kinh phí thường niên như đề tài cấp Đại học Huế, cấp Bộ, nhà trường còn tăng cường phân bổ kinh phí từ nguồn khoa học và công nghệ hàng năm dành cho người dạy và người học.

Ngoài ra, nhà trường đẩy mạnh công tác thông tin, tư vấn và hỗ trợ cán bộ, giảng viên tiếp cận, tham gia các chương trình, đề tài và dự án thuộc Quỹ Nafosted, cấp Nhà nước và cấp tỉnh.

Về công bố khoa học, trong năm học 2024-2025, nhà trường đã ban hành chính sách hỗ trợ đặc thù đối với giảng viên khối Khoa học Xã hội và Nhân văn, bao gồm hỗ trợ và khen thưởng các công bố quốc tế thuộc hệ thống Scopus/WoS.

Đối với các khối ngành Khoa học Tự nhiên và Kỹ thuật, nhà trường chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, phòng thí nghiệm đạt chuẩn, đồng thời thành lập Viện Nghiên cứu Ứng dụng Khoa học và Công nghệ.

Trong thời gian tới, nhà trường sẽ tiếp tục đẩy mạnh hỗ trợ, tư vấn và tập huấn cho cán bộ, giảng viên về viết đề tài nghiên cứu các cấp và công bố khoa học trong nước, quốc tế thông qua các chương trình bồi dưỡng chuyên sâu. Đồng thời, tăng cường hoạt động của các nhóm nghiên cứu mạnh, nhóm nghiên cứu mũi nhọn và chiến lược; ban hành Quy định về quản lý khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo phù hợp với bối cảnh mới.

Ngoài ra, nhà trường triển khai thực hiện gắn với Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo số 93/2025/QH15, nhằm tháo gỡ những “điểm nghẽn” hiện nay và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho giảng viên, người học trong hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và đổi mới sáng tạo".

nckh.png
Các đề tài nghiên cứu khoa học và kết quả công bố khoa học, công nghệ thực hiện trong năm 2024 của Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế. Ảnh chụp màn hình.

Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả đạt được, tỷ trọng thu khoa học - công nghệ của trường đạt 1,43%; giảm 4,46% so với năm 2023.

Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Võ Thanh Tùng, nguồn thu từ hoạt động khoa học và công nghệ của trường hiện nay chủ yếu đến từ kinh phí quản lý các đề tài, dự án và các hợp đồng tư vấn có quy mô nhỏ. Trong năm học 2024-2025, tỷ trọng nguồn thu từ hoạt động khoa học - công nghệ có xu hướng giảm so với năm học trước, xuất phát từ nhiều nguyên nhân.

Một là, số lượng đề tài cấp tỉnh giảm mạnh, gần như không có đề tài nào được triển khai trong năm 2025. Nguyên nhân chính là do chủ trương sáp nhập tỉnh/thành, dẫn đến việc thông báo và tuyển chọn đề tài tại các địa phương bị chậm hơn so với các năm trước.

Hai là, số lượng đề tài thuộc Quỹ Nafosted và cấp Nhà nước cũng giảm, do nhiều yếu tố khách quan khác trong quá trình xét duyệt và triển khai.

Trong bối cảnh nhà trường hướng tới thực hiện tự chủ toàn diện từ năm 2026 và nhằm đạt mục tiêu tỷ trọng nguồn thu từ hoạt động khoa học - công nghệ chiếm trung bình 5% theo Chuẩn cơ sở giáo dục đại học, nhà trường đang nghiên cứu, xây dựng quy chế và các giải pháp tăng nguồn thu từ hoạt động khoa học - công nghệ của cán bộ, giảng viên, cụ thể như sau:

Thứ nhất, tăng cường đóng góp từ hoạt động khoa học - công nghệ của cán bộ, giảng viên thông qua cơ chế trích tỷ lệ (từ 5–15%) công lao động của cá nhân khi tham gia các đề tài, dự án, hợp đồng dịch vụ tư vấn khoa học - công nghệ hoặc chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học do nhà trường quản lý.

Thứ hai, ban hành các chính sách quản lý và cơ chế khuyến khích phù hợp, nhằm thúc đẩy cán bộ, giảng viên ký kết hợp đồng tư vấn, cung cấp dịch vụ khoa học - công nghệ và chuyển giao công nghệ cho các tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp.

Thứ ba, khuyến khích thành lập doanh nghiệp trong trường (spin-off) hoặc liên kết với doanh nghiệp bên ngoài để thương mại hóa và chuyển giao các kết quả nghiên cứu khoa học - công nghệ của cán bộ, giảng viên.

Thứ tư, từng bước xây dựng và triển khai các chương trình bồi dưỡng ngắn hạn, tập huấn chuyên sâu có thu phí trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, nhằm đáp ứng nhu cầu đặt hàng của doanh nghiệp và xã hội, đồng thời mở rộng thêm nguồn thu hợp pháp, bền vững cho nhà trường.

Học phí chiếm phần lớn cơ cấu nguồn thu

Về kết quả tài chính, Báo cáo Công khai chất lượng giáo dục năm học 2024-2025 cho thấy, tổng thu hoạt động của nhà trường là 107,074 tỷ đồng. Trong đó, nguồn thu từ học phí là 72,705 tỷ đồng; chiếm 67,9% tổng thu. Thu từ khoa học và công nghệ là 1,116 tỷ đồng; chiếm 1,04% tổng thu. Còn lại là nguồn thu khác với 3,784 tỷ đồng và hỗ trợ chi thường xuyên từ Nhà nước/nhà đầu tư là 29,469 tỷ đồng.

Có thể thấy, nguồn thu từ khoa học công nghệ và các nguồn thu khác của Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế còn hạn chế, nguồn thu từ học phí chiếm tỷ trọng cao.

gdvn-nguon-thu-dhkh-hue.jpg
Cơ cấu nguồn thu của Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế trong năm 2023 và năm 2024. Biểu đồ: An Vy.

Chia sẻ về những nguyên nhân dẫn đến việc nguồn thu từ học phí chiếm tỷ trọng lớn, trong khi các nguồn thu khác còn khá hạn chế, Hiệu trưởng nhà trường cho biết, mặc dù nhà trường có triển khai nhiều hoạt động nghiên cứu khoa học, song nguồn thu từ nghiên cứu vẫn còn rất hạn chế do kinh phí đầu tư cho nghiên cứu khoa học cao, trong khi các đơn đặt hàng nghiên cứu và chuyển giao công nghệ từ bên ngoài còn ít.

Ngoài ra, nhà trường có khuôn viên nằm trên ba trục đường lớn của thành phố Huế. Nếu được phép khai thác, cho thuê các ki-ốt hoặc mặt bằng kinh doanh, đây sẽ là nguồn thu đáng kể. Tuy nhiên, do vướng mắc về cơ chế, chính sách và pháp lý nên việc tận dụng và phát huy hiệu quả tài sản công vẫn còn nhiều hạn chế.

Bên cạnh đó, nhà trường chưa thể đa dạng hóa nguồn thu vì việc khai thác các kênh như dự án tài trợ quốc tế, hợp tác đào tạo theo nhu cầu doanh nghiệp, tài trợ từ cựu sinh viên và các tổ chức, cá nhân mạnh thường quân vẫn chưa thực sự phát triển.

Hiện nay, để tăng cường nguồn lực tài chính, nhà trường đang đẩy mạnh xây dựng và mở rộng mối quan hệ hợp tác với doanh nghiệp, huy động các nguồn tài trợ cho hoạt động đào tạo và nghiên cứu. Thông qua đó, doanh nghiệp cũng nhận thấy lợi ích lâu dài khi đầu tư cho giáo dục.

Đồng thời, nhà trường đã thành lập Viện Nghiên cứu và Ứng dụng Khoa học - Công nghệ, nhằm thúc đẩy hoạt động chuyển giao các kết quả nghiên cứu đến các đối tác bên ngoài, góp phần tăng nguồn thu và khẳng định vai trò của trường trong hệ sinh thái khoa học - công nghệ khu vực.

An Vy